Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 406/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 406/2021/HS-ST NGÀY 16/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Vào ngày 16 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh B xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 407/2021/TLST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 438/2021/QĐXXST- HS ngày 03 tháng 12 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Lê Hồng Nhựt K, sinh năm 1987 tại A; thường trú: Ấp HT A, xã P, huyện T, tỉnh A; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Hòa Hảo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn H, sinh năm 1968 và bà Đỗ Thị M, sinh năm 1970. Bị cáo chung sống như vợ chồng (chưa đăng ký kết hôn) với bà Nguyễn Thanh T, sinh năm 1996; có 01 con tên Lê Nguyễn Đức T, sinh năm 2018.

- Tiền án: Bản án số 205/2019/HSST ngày 30/8/2019 của TAND thị xã (nay là thành phố) T, tỉnh B xử phạt 01 năm tù về tội Trộm cắp tài sản, chấp hành xong ngày 03/02/2020. Tiền sự: Không.

- Nhân thân: Ngày 19/6/2017 bị TAND thị xã (nay là thành phố) T, tỉnh B ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 12 tháng, chấp hành xong ngày 03/01/2018.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/5/2021 cho đến nay; có mặt.

2. Phạm Thị B, sinh năm 1990 tại A; thường trú: Ấp VQ, xã VA, huyện CT, tỉnh A; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Hòa Hảo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Thanh B, sinh năm 1968 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1970; chung sống như vợ chồng với ông Ngô Quốc C, sinh năm 1982 và có 01 con tên Phạm Anh Đ, sinh năm 2009. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/5/2021 cho đến nay; có mặt.

- Người làm chứng:

1. Bà Lê Thị T, vắng mặt.

2. Ông Nguyễn Thanh P, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 30 phút, ngày 26/5/2021, các bị cáo Lê Hồng Nhựt K và Phạm Thị B đến thuê phòng số 207 của nhà nghỉ H, địa chỉ Ô 103.DC 20, đường D20, khu dân cư V, Khu phố 4, phường An Phú, thành phố T để ở. Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 22 giờ ngày 26/5/2021 bị cáo Khương ra trước cửa nhà nghỉ H gặp 1 thanh niên không rõ lai lịch mua 01 gói ma túy với giá 1.500.000 đồng. Sau đó bị cáo Khương đưa gói ma túy cho bị cáo B cất giấu trong túi xách của bị cáo B để trên giường khi nào có nhu cầu thì cùng nhau sử dụng.

Khoảng 23 giờ ngày 26/5/2021, đối tượng Nguyễn Thanh P là bạn của bị cáo K đang nghỉ tại phòng 304 nhà nghỉ H đi xuống phòng của bị cáo K chơi. Cùng lúc này Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và ma túy Công an thành phố T phối hợp Công an phường An Phú kiểm tra hành chính. Do đang giấu ma túy trong người nên Nguyễn Thanh P chạy vào nhà vệ sinh của phòng 207 để trốn và ném gói ma túy vào bồn cầu thì bị lực lượng công an phát hiện bắt quả tang. Tiếp tục kiểm tra thì công an phát hiện trong túi xách của bị cáo B có cất giấu 01 gói ma túy nên lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại Kết luận giám định số 285/MT-PC09 ngày 04/6/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận: 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng thu giữ của các bị cáo Lê Hồng Nhựt K và Phạm Thị B gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng: 1,9831 gam.

Cáo trạng số 406/CT-VKS.TA ngày 05/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh B truy tố các bị cáo Lê Hồng Nhựt K và Phạm Thị B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Lê Hồng Nhựt K và Phạm Thị B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51của Bộ luật Hình sự.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Lê Hồng Nhựt K có tình tiết tăng nặng tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

- Về hình phạt:

+ Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Lê Hồng Nhựt K mức hình phạt từ 02 (Hai) năm 03 (Ba) tháng đến 02 (Hai) năm 09 (Chín) tháng tù.

+ Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Phạm Thị B mức hình phạt từ 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng đến 02 (Hai) năm tù.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào các điều 46 và 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy các vật chứng gồm:

+ 01 (Một) bì thư chứa ma túy được niêm phong, bên ngoài ghi vụ số 285/PC09, có chữ ký cán bộ niêm phong Phan Trung Chính, chữ ký người bị bắt Lê Hồng Nhựt K, Phạm Thị B và hình dấu đỏ của Công an phường An Phú, thành phố T, B (kèm theo Kết luận giám định số 285/MT-PC09 ngày 04/6/2021).

+ 01 (Một) nỏ thủy tinh; 01 (Một) túi khóa kéo màu nâu và 01 (Một) túi xách màu đen.

Đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Nguyễn Thanh P đã tách ra xử lý trong vụ án khác. Đối với người thanh niên lạ mặt bán ma túy cho bị cáo K cơ quan điều tra đang tiếp tục xác minh. Do đó, không đề nghị Hội đồng xét xử đề cập giải quyết.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo Lê Hồng Nhựt K và Phạm Thị B thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng truy tố và trình bày: Vào khoảng 23 giờ 00 phút, ngày 26/5/2021 bị cáo K có mua số ma túy trên của một người thanh niên với giá 1.500.000 đồng. Sau đó bị cáo K mang về đưa cho bị cáo B cất giấu để cùng nhau sử dụng thì bị lực lượng công an kiểm tra phát hiện.

Trong phần trình bày lời nói sau cùng, các bị cáo đã nhận thấy hành vi của bản thân là phạm tội, ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và những người tham gia tố tụng không khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về tội danh và khung hình phạt: Lời khai của các bị cáo thống nhất với nhau về quá trình thực hiện hành vi phạm tội, phù hợp với kết luận giám định và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, đủ căn cứ kết luận:

Ngày 26/5/2021 tại phòng số 207, nhà nghỉ H, địa chỉ: Ô 103.DC 20, đường D20, khu dân cư V, Khu phố 4, phường An Phú, thành phố T, tỉnh B, các bị cáo Lê Hồng Nhựt K và Phạm Thị B đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 1,9831 gam ma túy, loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ.

Các bị cáo là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật hình sự nhưng do thái độ coi thường pháp luật nên vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Như vậy đủ căn cứ kết luận cáo trạng truy tố các bị cáo Lê Hồng Nhựt K và Phạm Thị B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về vai trò của các bị cáo: Đây là vụ án có đồng phạm giản đơn, trong đó bị cáo Lê Hồng Nhựt K có vai trò cao hơn bị cáo Phạm Thị B.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại các điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Lê Hồng Nhựt K phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tái phạm theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[6] Căn cứ quyết định hình phạt: Xét thấy các bị cáo là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy, không có nghề nghiệp ổn định. Do đó, cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn và nghiêm khắc mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục các bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội. Mức hình phạt theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà là có căn cứ, phù hợp pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào các điều 46 và 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử thấy:

Đối với các vật chứng là 01 (Một) bì thư chứa ma túy được niêm phong, bên ngoài ghi vụ số 285/PC09, có chữ ký cán bộ niêm phong Phan Trung Chính, chữ ký người bị bắt Lê Hồng Nhựt K, Phạm Thị B và hình dấu đỏ của Công an phường An Phú, thành phố T, B (kèm theo Kết luận giám định số 285/MT-PC09 ngày 04/6/2021) và 01 (Một) nỏ thủy tinh là công cụ phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với các vật chứng gồm: 01 (Một) túi khóa kéo màu nâu và 01 (Một) túi xách màu đen là tài sản của các bị cáo nhưng không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phạm tội và bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Các điều 106, 135, 136, 260, 268, 269, 298, 299, 331 và 333 của Bộ luật tố tụng hình sự;

- Điểm c khoản 1 Điều 249; các điều 46 và 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Lê Hồng Nhựt K và Phạm Thị B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

+ Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Lê Hồng Nhựt K 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/5/2021.

+ Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Phạm Thị B 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/5/2021.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy các vật chứng gồm:

+ 01 (Một) bì thư chứa ma túy được niêm phong, bên ngoài ghi vụ số 285/PC09, có chữ ký cán bộ niêm phong Phan Trung Chính, chữ ký người bị bắt Lê Hồng Nhựt K, Phạm Thị B và hình dấu đỏ của Công an phường An Phú, thành phố T, B (kèm theo Kết luận giám định số 285/MT-PC09 ngày 04/6/2021);

+ 01 (Một) nỏ thủy tinh; 01 (Một) túi khóa kéo màu nâu và 01 (Một) túi xách màu đen.

(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 11/11/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an thành phố T và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh B).

4. Về án phí sơ thẩm: Các bị cáo Lê Hồng Nhựt K và Phạm Thị B mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

29
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 406/2021/HS-ST

Số hiệu:406/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về