Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 40/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG NÔ, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 40/2023/HS-ST NGÀY 22/09/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 9 năm 2023, Tòa án nhân dân huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông mở phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 41/2023/TLST-HS, ngày 12/9/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2023/QĐXXST-HS, ngày 12 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lang Văn T, sinh ngày 08/12/1999; tại: tỉnh Đắk Nông; Nơi đăng ký NKTT và trú tại: Thôn ĐT, xã N, huyện K, tỉnh Đắk Nông ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 08/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lang Văn T1, sinh năm 1977 và bà: Lang Thị L, sinh năm 1977; bị cáo là con thứ nhất trong gia đình có 02 anh em; Tiền án, tiền sự: Không;

Biện pháp ngăn chặn áp dụng: Bị bắt tạm giam từ ngày 30/6/2023, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông (Bị cáo có mặt).

*/ Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Lang Văn H; địa chỉ: Thôn ĐT, xã N, huyện K, tỉnh Đắk Nông (Có mặt)

*/ Người làm chứng:

1. Hà Trung N; địa chỉ: Thôn 4, xã E, huyện L, tỉnh Đắk Lắk (Vắng mặt)

2. Đào Quang T; địa chỉ: Thôn NT, xã NĐ, huyện K, tỉnh Đắk Nông (Vắng mặt)

3. Mai Ngọc T; địa chỉ: Thôn ĐX, xã ĐD, huyện K, tỉnh Đắk Nông (Vắng mặt)

4. Hoàng Mạnh D; địa chỉ: Buôn K, xã ĐD, huyện K, tỉnh Đắk Nông (Vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Lang Văn T là đối tượng nghiệm ma túy. Vào khoảng 20 giờ ngày 11/6/2023 Lang Văn T điều khiển xe mô tô chở Hà Trung N đi từ xã E, huyện L, tỉnh Đắk Lắk đến nhà Đào Quang T ở thôn NTg, xã NĐ, huyện K, tỉnh Đắk Nông để nhậu. Đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, Lang Văn T điều khiển xe mô tô ra thị trấn E, huyện C, tỉnh Đắk Nông để mua dụng cụ sơn nhà. Khi đi đến khu vực ngã ba thác Trinh Nữ, thị trấn E, huyện C thì Lang Văn T gặp một người đàn ông tên L (chưa rõ nhân thân, lai lịch), biết L có sử dụng ma túy nên Lang Văn T hỏi L mua ma túy về sử dụng thì L đồng ý bán cho Lang Văn T 500.000 đồng, L nhận tiền rồi đưa cho Lang Văn T 01 gói có chứa ma túy; Lang Văn T cầm gói ma túy rồi tiếp tục đi mua dụng cụ sơn nhà nhưng không có cửa hàng nào mở cửa nên quay về tiếp tục nhậu với Đào Quang T, Hà Trung N. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, Đào Quang T điều khiển xe mô tô chở Hà Trung N, Lang Văn T đi về xã E, huyện L, tỉnh Đắk Lắk để ngày hôm sau đi làm; trên đường đi Lang Văn T ngồi sau cùng, tay phải cầm theo gác kéo xe đã được tháo rời và dùng ngón tay kẹp gói ma túy vào gác kéo xe. Khi đi đến khu vực ngã ba G, xã ĐD, huyện K thì gặp tổ công tác tuần tra Công an xã Đắk Drô kiểm tra; tổ công tác yêu cầu Lang Văn T xuống xe và thả gác kéo xe xuống thì Lang Văn T bước xuống xe. Lúc này, Lang Văn T dơ tay phải đang cầm gác kéo xe lên cao rồi thả ngón tay để gói ma túy rớt xuống khu vực rãnh thoát nước cách vị trí Lang Văn T đứng khoảng 01m thì bị tổ công tác phát hiện, lập biên bản thu giữ sau đó chuyển giao cho Cơ quan CSĐT công an huyện Krông Nô giải quyết theo thẩm quyền.

Tại bản Kết luận giám định số 226/KL-KTHS ngày 16/6/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông kết luận: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng đựng trong 01 gói nhựa hàn kín kích thước (3x2)cm là ma túy Methamphetamine, có khối lượng 0,4189 gam; hoàn lại sau giám định là 0,3908 gam.

Tại Bản cáo trạng số 43/CT-VKS-KrN ngày 07 tháng 9 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Nô đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Krông Nô để xét xử bị cáo Lang Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Nô đã phân tích, đánh giá tính chất của vụ án, chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Lang Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:

2 */ Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, Xử phạt bị cáo Lang Văn T mức án từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo Lang Văn T.

*/ Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 106 của BLTTHS; Áp dụng Điều 47 của BLHS:

- Tịch thu tiêu hủy 0,3908 gam Methamphetamine, còn lại sau giám định, do không còn giá trị sử dụng.

- Chấp nhận việc Cơ quan CSĐT Công an huyện Krông Nô ra quyết định trả lại 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A30 cho Lang Văn H là chủ sở hữu hợp pháp.

Tại phiên toà, bị cáo không bào chữa, không tranh luận gì mà chỉ xin Tòa án xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo Lang Văn T nói lời sau cùng, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, bị cáo xin hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo một cơ hội để sửa chữa những lỗi lầm sớm trở thành người công dân tốt, sống có ích.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Krông Nô, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Nô, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, những người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa, bị cáo Lang Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện đúng như diễn biến sự việc mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông đã truy tố, lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai.

[2] Nhận định: Vào khoảng 23 giờ 30 phút ngày 11/6/2023, tại khu vực ngã ba G, xã ĐD, huyện K, tỉnh Đắk Nông, Lang Văn T có hành vi tàng trữ 0,4189 gam ma túy Methamphetamine để sử dụng thì bị Công an xã Đắk Drô phát hiện, thu giữ sau đó chuyển cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Krông Nô giải quyết theo thẩm quyền. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS.

Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có cơ sở, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Do đó, đủ căn cứ để kết luận hành vi của bị cáo đã 3 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS.

Khoản 1 Điều 249 BLHS quy định:

1. Người nào Tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

….

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

[3] Xét tính chất vụ án do bị cáo gây ra là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chế độ quản lý của nhà nước về các chất ma túy, góp phần làm gia tăng các tệ nạn xã hội, ảnh hưởng đến đời sống cộng đồng. Trong thời gian gần đây, nổi nên tình trạng tàng trữ, vận chuyển, mua bán, sử dụng trái phép chất ma túy một cách nghiêm trọng, đây là một vấn nạn của xã hội chính từ ma túy mà nảy sinh nhiều tệ nạn xã hội khác, vì vậy cần phải có một hình phạt tương xứng để răn đe, giáo dục bị cáo, đồng thời làm gương cho những ai đã và đang có ý định phạm tội, nhằm nhanh chóng loại bỏ loại tội phạm này ra khỏi xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng.

Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do đó cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật nhà nước ta. Tuy nhiên cũng cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để bị cáo học tập, lao động cải tạo trở thành người công dân tốt có ích cho gia đình và xã hội.

[5] Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 của BLHS; Căn cứ Điều 106 của BLTTHS:

- Đối với 0,3908 gam Methamphetamine, còn lại sau giám định, cần tịch thu tiêu hủy mới phù hợp.

- Việc Cơ quan CSĐT Công an huyện Krông Nô ra quyết định trả lại 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A30 cho Lang Văn H là chủ sở hữu hợp pháp là phù hợp cần chấp nhận.

[6] Trong vụ án này còn có những vấn đề sau:

- Đối với Hà Trung N và Đào Quang T không biết việc Lang Văn T tàng trữ trái phép chất ma túy nên không có căn cứ xử lý.

4 - Đối với người đàn ông tên L (chưa rõ nhân thân, lai lịch) có hành vi bán ma túy cho Lang Văn T, do chưa có đủ cơ sở xử lý nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Krông Nô tiếp tục xác minh, khi nào có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

- Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Lang Văn T.

[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lang Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS. Xử phạt: Bị cáo Lang Văn T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 30/6/2023.

2. Về vật chứng trong vụ án: Áp dụng Điều 47 của BLHS; Căn cứ Điều 106 của BLTTHS.

- Tịch thu tiêu hủy 0,3908 gam Methamphetamine còn lại sau giám định.

- Chấp nhận việc Cơ quan CSĐT Công an huyện Krông Nô ra quyết định trả lại 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A30 cho Lang Văn H là chủ sở hữu hợp pháp.

(Theo biên bản bàn giao vật chứng giữa Chi cục thi hành án dân sự huyện K và Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Krông Nô).

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của BLTTHS; Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Lang Văn T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) tiền án phí HSST.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án phần liên quan đến mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 40/2023/HS-ST

Số hiệu:40/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Nô - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về