Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 39/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 39/2022/HS-ST NGÀY 22/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 6 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 28/2022/TLST-HS ngày 09/5/2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2022/QĐXXST-HS ngày 09/6/2022 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Anh H, Sinh ngày 19 tháng 7 năm 2002 tại tỉnh Bình Phước ; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam. Nơi đăng ký HKTT: Tổ 4, ấp 3, xã A, huyện H, tỉnh Bình Phước; chỗ ở: Tổ 4, ấp 3, xã A, huyện H; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không.; Nghề nghiệp: Làm vườn; Trình độ học vấn: 12/12. Cha: Nguyễn Thanh P, sinh năm 1977, Mẹ: Nguyễn Thị T, sinh năm 1980. Bị cáo có 02 anh chị em, anh lớn nhất là bị cáo, nhỏ nhất sinh năm 2008. Bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Không.

Ngày 11/01/2022 bị cáo có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, bị bắt quả tang, tạm giữ hình sự đến ngày 20/01/2022 bị khởi tố và tạm giam đến ngày 30/3/2022 được thay thế biện pháp ngăn chặn từ tạm giam sang biện pháp cho gia đình bảo lĩnh. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Điểu P, Sinh ngày 28 tháng 9 năm 2003 tại: tỉnh Bình Phước; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Tổ 5, ấp 4, xã A, huyện H, tỉnh Bình Phước; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Stiêng ; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 03/12. Cha: Điểu Đ, sinh năm 1983, Mẹ: Thị D, sinh năm 1980. Bị cáo có 03 anh chị em, anh lớn nhất là bị cáo, nhỏ nhất sinh năm 2017; Bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án: Không. Tiền sự: Ngày 30/12/2020, Công an xã A, huyện H, xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy số tiền 500.000 đồng, bị cáo đã đóng phạt ngày 14/4/2021.

Ngày 11/01/2022 bị cáo có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, bị bắt quả tang, tạm giữ hình sự đến ngày 20/01/2022 bị khởi tố và tạm giam cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Nguyễn Thanh P, sinh năm 1977 (Có mặt)

Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1980 (Có mặt) Nơi cư trú: Tổ 4, ấp 3, xã A, huyện H, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Anh H và Điểu P là những người nghiện ma túy từ năm 2021.

Nguồn ma túy do H và P mua của một số đối tượng không rõ nhân thân để sử dụng. Vào khoảng 19 giờ ngày 11/01/2022 H rủ Phước đến nhà anh Nguyễn Hữu T, sinh năm 1997 trú tại tổ 2, ấp 4, xã A, huyện H để chơi thì P đồng ý. Tại đây H nảy sinh ý định sử dụng ma túy nên rủ P góp tiền để đi mua ma túy về sử dụng thì P đồng ý. Sau đó mỗi người góp 150.000 đồng được số tiền 300.000 đồng. Sau khi góp tiền xong, do H biết người thanh niên tên Cu Em (không rõ nhân thân, lai lịch) ở khu vực xã T, huyện H có bán ma túy nên H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 93C1 – 327.82 chở Phước đi đến đoạn đường thuộc ấp S, xã T gặp Cu Em hỏi mua một gói ma túy với giá 300.000 đồng thì Cu Em đồng ý. Một lúc sau Cu Em đến thì H đưa tiền cho Cu Em rồi Cu Em đưa cho Phước 01 đoạn ống hút nhựa màu trắng được hàn kín bên trong có ma túy và một nỏ thủy tinh. Sau khi mua được ma túy P cầm ma túy trên tay trái và bỏ nỏ thủy tinh vào túi áo khoác đang mặc, còn H điều khiển xe mô tô chở P đi về xã A. Khi đi đến đoạn đường nhựa thuộc tổ 7, ấp AN, xã T, huyện H thì bị lực lượng Công an kiểm tra thu giữ trên người Phước 01 gói ma túy và 01 nỏ thủy tinh để sử dụng chất ma túy. H và P xác định cất giấu gói ma túy chỉ nhằm mục đích sử dụng.

Tiến hành xét nghiệm chất ma túy đối với Nguyễn Anh H và Điểu P cho kết quả dương tính, có sử dụng ma túy.

Quá trình điều tra Nguyễn Anh H và Điểu Pđã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Căn cứ Kết luận giám định số: 20/2022/GĐ-MT ngày 18/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước kết luận: Tinh thể màu trắng có trong 01 đoạn ống hút nhựa (ký hiệu M) được niêm P gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là: 0,1081 gam.

Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; xử lý vật chứng:

Vật chứng thu giữ:

- 01 đoạn ống hút nhựa màu trắng đựng ma túy, được niêm P trong một bì thư.

- 01 mảnh giấy bạc có kích thước 8cm x 4cm - 01 xe mô tô hiệu Suzuky Raider biển số 93C1 – 327.82 - 01 nỏ thủy tinh dài 13cm - 01 điện thoại Vivo V2026, màu xanh - 01 điện thoại di động Iphone 7 Plus màu vàng đồng Xử lý vật chứng: Đối với số ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng còn lại sau giám định là 0,0556 gam được niêm Phong. Đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành. Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị Tòa án tuyên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại Vivo V2026 và 01 điện thoại di động Iphone 7 Plus. Quá trình điều tra xác định là tài sản của Điểu P và Nguyễn Anh H, không phải là công cụ, phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu.

Đối với xe mô tô hiệu Suzuky Raider biển số 93C1 – 327.82. Quá trình điều tra xác định xe mô tô trên do Nguyễn Anh H đứng tên giấy chứng nhận đăng ký, là phương tiện để H chở Phước đi mua ma túy về sử dụng. Xe mô tô trên do gia đình bị cáo Nguyễn Anh H mua trả góp, thời gian trả từ ngày 04/01/2021 đến ngày 02/7/2022 cho Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn MB SHINSEL; ở giai đoạn điều tra gia đình bị cáo đã thanh toán được số tiền 37.070.000 đồng; còn lại 23.590.000 đồng trước khi mở phiên tòa gia đình bị cáo đã thanh toán xong.

Đối với 01 nỏ thủy tinh dài 13cm và 01 mảnh giấy bạc. Đây là công cụ để sử dụng trái phép chất ma túy, hiện không còn giá trị sử dụng.

Về vấn đề dân sự: Không đặt ra.

Tại phiên toà:

Đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố bảo vệ quan điểm của bản cáo trạng số 34/CT-VKS ngày 05/5/2022, căn cứ tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo đề nghị HĐXX tuyên bố các bị cáo Nguyễn Anh H và Điểu P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, 58 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Anh H mức án từ 12 tháng đến 15 tháng tù.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, 58 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Điểu P mức án từ 12 tháng đến 15 tháng tù.

- Đề nghị xử lý vật chứng:

Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tuyên tịch thu, tiêu hủy: Số ma túy có khối lượng còn lại sau giám định là 0,0556 gam, loại Methamphetamine được niêm P, đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành; 01 nỏ thủy tinh dài 13cm và 01 mảnh giấy bạc. Đây là công cụ để sử dụng trái phép chất ma túy, hiện không còn giá trị sử dụng.

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: xe mô tô hiệu Suzuky Raider biển kiểm soát số 93C1 – 327.82 đứng tên Nguyễn Anh H, số khung LV144783, số máy A 4819.

- Trách nhiệm dân sự: Không xảy ra.

Tranh luận: Các bị cáo không tranh luận gì.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: Các bị cáo nhận thức được hành vi tàng trử trái phép chất ma túy là nguy hiểm cho xã hội của mình nên xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Bình Phước và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra và truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo và những người tham gia tố tụng.

[2] Tại phiên toà, các bị cáo Nguyễn Anh H và Điểu P khai nhận:

Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên vào ngày 11/01/2022, Nguyễn Anh H đã có hành vi rủ Điểu P góp tiền để đi mua ma túy về sử dụng. Sau đó H và P góp được số tiền 300.000 đồng. H điều khiển xe mô tô chở P đi đến gặp người thanh niên tên Cu Em (không rõ nhân thân) tại xã T, huyện H mua 01 tép ma túy với giá 300.000 đồng về để sử dụng. Đến khoảng 20 giờ 30 cùng ngày, khi H đang điểu khiển xe mô tô chở P đi trên đường thuộc tổ 7, ấp AN, xã T, huyện H thì bị lực lượng Công an bắt quả tang, thu giữ 01 tép ma túy trên người của Điểu P. Qua giám định xác định số ma túy thu giữ trên người của Điểu P có T lượng là: 0,1081 gam, loại Methamphetamine.

Hành vi trên của Nguyễn Anh H và Điểu P đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại Điều 249 BLHS.

[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các loại chất gây nghiện, đi ngược lại đường lối chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trong việc đấu tranh phòng ngừa các tội phạm về ma túy, ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự địa phương, đồng thời là mầm mống của các tệ nạn xã hội khác. Các bị cáo là người đã thành niên và hoàn toàn nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện để thỏa mãn nhu cầu của bản thân;

[4] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo: Đây là vụ án đồng phạm phạm giản đơn; do các bị cáo là đối tượng nghiện ma túy nên bị cáo H nảy sinh ý định cùng nhau nên rủ rê P góp tiền mua ma túy để cùng sử dụng nên vai trò của Nguyễn Anh H là chủ động thực hiện hành vi phạm tội. Các bị cáo phạm tội lần đầu; số lượng ma túy các bị cáo tàng trữ để sử dụng ít chỉ 0,1081 gam; quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, hợp tác với các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án, bị cáo P là người đồng bào dân tộc thiểu số, trình độ am hiểu pháp luật thấp nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tuy nhiên, bị cáo H có nhân thân tốt không có tiền án, tiền sự; bị cáo Điểu P trước đó đã bị Công an xã A xử phạt về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên khi lượng hình xử phạt bị cáo P mức án tương đương với bị cáo H là phù hợp.

Trên cơ sở đó, Cáo trạng số 34/CT-VKS ngày 05/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố các bị cáo Nguyễn Anh H và Điểu P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ và đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, 58 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo H; đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, 58 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo P.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Anh H mức án từ 12 tháng đến 15 tháng tù; Xử phạt bị cáo Điểu P mức án từ 12 tháng đến 15 tháng tù tháng tù là hoàn toàn phù hợp với tính chất mực độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của các Bị cáo, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[4] Xử lý vật chứng vụ án:

- Căn cứ các Điều 46, 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 – Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tuyên tịch thu, tiêu hủy: Số ma túy có khối lượng còn lại sau giám định là 0,0556 gam, loại Methamphetamine được niêm P, đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành; 01 nỏ thủy tinh dài 13cm và 01 mảnh giấy bạc, đây là công cụ để sử dụng trái phép chất ma túy, hiện không còn giá trị sử dụng.

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: xe mô tô hiệu Suzuky Raider biển kiểm soát số 93C1 – 327.82 đứng tên Nguyễn Anh H, số khung LV144783, số máy A 4819 là phương tiện phạm tội của bị cáo H.

Các vật chứng khác đã được Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện H, tỉnh Bình Phước xử lý đúng quy định nên không tiếp tục xử lý.

- Trách nhiệm dân sự: Không xảy ra.

[5] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Anh H và Điểu P phải chịu theo luật định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Anh H và Điểu P phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về điều luật áp dụng và mức hình phạt:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, 58 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Anh H 01 (một) năm tù. Thời gian tính tù từ ngày bắt thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/01/2022 đến ngày 30/3/2022.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, 58 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Điểu P 01 (một) năm tù. Thời gian tính tù từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 11/01/2022.

3. Về vật chứng vụ án:

Áp dụng Điều 46, 47 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

- Tuyên tịch thu, tiêu hủy: Số ma túy có khối lượng còn lại sau giám định là 0,0556 gam, loại Methamphetamine được niêm P, đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành; 01 nỏ thủy tinh dài 13cm và 01 mảnh giấy bạc. Đây là công cụ để sử dụng trái phép chất ma túy, hiện không còn giá trị sử dụng.

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: xe mô tô hiệu Suzuky Raider biển kiểm soát số 93C1 – 327.82 đứng tên Nguyễn Anh H, số khung LV144783, số máy A 4819 là phương tiện bị cáo H sử dụng để phạm tội.

Các vật chứng khác đã được Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện H, tỉnh Bình Phước xử lý đúng quy định nên không tiếp tục xử lý.

- Trách nhiệm dân sự: Không xảy ra.

(Theo Quyết định chuyển vật chứng số 25/QĐ-VKS ngày 05/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Bình Phước và Theo như mô tả của biên bản giao nhận vật chứng số 0005844 ngày 09/5/2022 giữa cơ quan Hỗ trợ tư pháp và Thi hành án hình sự và chi Chi cục thi hành án dân sự huyện H).

4. Về án phí:

Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc Hội:

Các bị cáo Nguyễn Anh H và Điểu P mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5.Về quyền kháng cáo:

Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

83
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 39/2022/HS-ST

Số hiệu:39/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hớn Quản - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về