Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 39/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NẬM NHÙN, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 39/2022/HS-ST NGÀY 17/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 17/06/2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lỵ số: 40/2022/HSST ngày 27/05/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 41/2022/QĐXXST-HS ngày 07/06/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Giàng A M; Tên gọi khác: Không.

Sinh năm 1989 tại tỉnh Điện Biên.

Nơi ĐKNKTT và chỗ ở trước khi bị bắt: Bản Huổi Khương, xã P, huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên.

Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 03/12; Dân tộc: Mông.

Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam Con ông: Giàng A p (đã chết) và con bà: Lý Thị D (sinh năm 1952).

Hiện mẹ bị cáo đang sinh sống tại bản Huổi Khương, xã P, huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên.

Gia đình bị cáo có 08 anh, chị, em, bị cáo là con thứ bẩy trong gia đình.

Bị cáo có vợ, con: Vợ Sùng Thị S - Sinh năm 1994. Bị cáo có 04 con, con lớn nhất sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2018. Hiện vợ, con của bị cáo đang sinh sống tại bản Huổi Khương, xã P, huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên.

Tiền sự: Không Tiền án: Không Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/01/2022 cho đến nay hiện bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu.

(Có mặt tại phiên tòa).

+ Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Bà: Sùng Thị S - Sinh năm 1994 Trú tại: Bản Huổi Khương, xã P, huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên.

(Vắng mặt tại phiên toà không rõ lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 16 giờ 55 phút, ngày 31/12/2021, Giàng A M điều khiển mô tô BKS: 27B2 - 076.47, từ hướng bản Huổi Lính, xã Nậm Chà, huyện Nậm Nhím, tỉnh Lai Châu đi bản Huổi Khương, xã P, huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên. Khi đi, M mang theo 01 túi zip nilon màu xanh, bên trong có chứa 196 viên nén màu hồng và 02 viên nén màu xanh, là ma túy tổng hợp. Đến 17 giờ cùng ngày, tại đường mòn thuộc bản Huổi Lính, xã Nậm Chà, huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu, Giàng A M bị tổ công tác Công an xã Nậm Chà, huyện Nậm Nhùn phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ số ma túy trên tay trái của M cùng chiếc xe mô tô nêu trên. M thừa nhận đó là số ma túy của M tàng trữ với mục đích để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã lập biên bản phạm tội quả tang đối với Giàng A M, thu giữ toàn bộ vật chứng liên quan.

Tại kết luận giám định số 02 ngày 31/12/2021 của giám định viên tư pháp theo vụ việc, kết luận: 196 viên nén màu hồng, một mặt dập chữ WY có khối lượng 19,3 (mười chín phẩy ba) gam; 02 viên nén màu xanh, một mặt dập chữ WY có khối lượng 0,2 (không phẩy hai gam); tổng khối lượng 198 viên nén là 19,5 (mười chín phẩy năm) gam. gửi toàn bộ đi giám định.

Tại bản kết luận giám định số 83/GĐ-KTHS ngày 04/01/2022 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận:

+ 01 (một) mẫu viên nén màu hồng (ký hiệu M1) gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine. (không hoàn lại mẫu vật gửi giám định).

+ 01 (một) mẫu viên nén màu xanh (ký hiệu M2) gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine. (không hoàn lại mẫu vật gửi giám định).

Tại bản cáo trạng số: 25/CT-VKS ngày 26 tháng 05 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu đã truy tố bị cáo Giàng A M về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Điểm g khoản 2 Điều 249 BLHS năm 2015 quy định: “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm” g) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam;

Tại phiên toà hôm nay vị đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Giàng A M theo bản cáo trạng và đưa ra các căn cứ, chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ, căn cứ vật chứng đã thu giữ gồm 198 viên nén có khối lượng là 19,5 (mười chín phẩy năm) gam Methamphetamine thu giữ của bị cáo cùng các lời khai nhận tội của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay, Vị đại diện VKS khẳng định bị cáo đã phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" và đề nghị HĐXX áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249 BLHS; áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1,2 Điều 51; Khoản 5 Điều 249 BLHS đối với bị cáo; miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo từ 07 (bẩy) năm 06 (sáu) tháng đến 08 (tám) năm tù về tội ‘Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị xử lý vật chứng.

Về phía bị cáo, tại phiên toà hôm nay bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội không oan sai và bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Lời nói sau cùng của bị cáo tại phiên toà hôm nay: Bị cáo nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Sùng Thị S vắng mặt tại phiên toà không rõ lý do. Vậy HĐXX quyết định tách riêng phần bồi thường dân sự, nếu có yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo Điều 292 BLTTHS.

Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định của Cơ quan điều tra huyện Nậm Nhùn, Điều tra viên. Cơ quan Viện kiểm sát huyện Nậm nhùn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đứng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo tại phiên toà hôm nay bị cáo khai nhận tội, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với tang vật vụ án và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung bản cáo trạng, bị cáo thừa nhận đã truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội không oan sai.

* Về Lời khai của bị cáo: Trong quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo khai nhận rằng: Khi khai nhận trước Cơ quan điều tra, bị cáo không hề bị bức cung, nhục hình; các biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, bị cáo được đọc lại và tự nguyện ký nhận và bị cáo thừa nhận đã tàng trữ trái phép 198 viên nén có khối lượng là 19,5 (mười chín phẩy năm) gam Methamphetamine để sử dụng cho bản thân. Hội đồng xét xử thấy ràng lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra là tự nguyện, khách quan; biên bản, tài liệu điều tra được thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

* Xét quan điểm luận tội của Kiểm sát viên và ý kiến của bị cáo HĐXX thấy rằng: Tại phiên tòa hôm nay, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nậm Nhùn tham gia phiên tòa đã đưa ra các căn cứ chứng minh về hành vi phạm tội của bị cáo căn cứ vào các tài liệu chúng cứ đã thu thập có trong hồ sơ, căn cứ kết quả mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu vật gửi đi giám định. Kết luận giám định số 83/GĐ-KTHS ngày 04/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu đối với mẫu vật thu giữ của bị cáo gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine. Các lời khai nhận tội của bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bởi vì những quan điểm này phù hợp với những tài liệu chứng cứ đã được thu thập khách quan, hợp pháp có trong hồ sơ vụ án cùng lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay đã cho thấy: Hồi 17 giờ, ngày 31/12/2021, tại đường mòn thuộc bản Huổi Lính, xã Nậm Chà, huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu, Giàng A M tàng trữ trái phép 19,5 gam (mười chín phẩy năm gam) Methamphetamine, với mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị Công an xã Nậm Chà, huyện Nậm Nhùn, phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Do đó Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Giàng A M phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 BLHS.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo Hội đồng xét xử xét thấy bản thân bị cáo là người dân tộc thiểu số, tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bản thân bị cáo học hết lớp 03/12 nên nhận thức về pháp luật còn hạn chế. Đây là những tình tiết xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s Khoản 1,2 Điều 51BLHS.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Với những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nêu trên vì vậy khi quyết định hình phạt đối với bị cáo cần xem xét hành vi phạm tội với tính chất của bị cáo đã gây ra, gây bức xúc cho nhân dân địa phương, coi thường pháp luật. Vì vậy phải có hình phạt tương xứng đối với hành vi phạm tội của bị cáo và cũng là bài học cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, để cải tạo bị cáo trở thành người công dân có Ích cho xã hội.

[5] Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; xử lý vật chứng:

- 19,5 gam (mười chín phẩy năm gam) Methamphetamine thu giữ của Giàng A M đã gửi giám định toàn bộ, không hoàn lại mẫu vật.

- 01 (một) xe mô tô BKS: 27B2 - 076.47, thu giữ của Giàng A M. Kết quả điều tra xác định, xe mô tô trên là tài sản chung của gia đình. Ngày 21/4/2022, Sùng Thị S; sinh năm 1994; trú tại bản Huổi Khương, xã P, huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên; là vợ của Giàng A M đã có đơn xin lại xe mô tô. Nên ngày 29/4/2022, Cơ quan CSĐT Công an huyện Nậm Nhùn đã trả lại xe mô tô trên cho chị Sùng Thị S theo quy định. Vậy HĐXX cần chấp nhận.

- Áp dụng khoản 1 Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS Tịch thu tiêu hủy vì không còn giá trị sử dụng: Toàn bộ vỏ bì và mảnh nilon còn lại sau khi mở niêm phong được cho vào một phong bì niêm phong do Công an huyện Nậm Nhùn phát hành.

Vật chứng trên hiện đang bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nậm Nhùn.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Sùng Thị S vắng mặt tại phiên toà không rõ lý do. Vậy HĐXX quyết định tách riêng phần bồi thường dân sự, nếu có yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo Điều 292 BLTTHS.

[7] Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền hoặc tịch thu tài sản. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ đều cho thấy bị cáo lao động tự do, không có thu nhập ổn định, điều kiện kinh tế khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử miễn hình phạt tiền hoặc tịch thu tài sản đối với bị cáo.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Trong vụ án này:

- Theo lời khai của Giàng A M, 19,5 gam (mười chín phẩy năm gam) Methamphetamine bị thu giữ là do M mua của một người đàn ông không quen biết, tự xưng tên Hờ A S, trú tại bản Nậm Lít, xã Chà Cang, huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên vào cuối tháng 12 năm 2021, trên đường thuộc bản Huổi Khương, xã P, huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên, với số tiền 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng). Kết quả điều tra xác định tại xã Chà Cang, huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên không có bản Nậm Lít và không xác định được nhân thân, lai lịch của người này nên không có căn cứ để giải quyết.

- Theo lời khai của Giàng A M ngày 31/12/2021 bị cáo mua Heroin với một người đàn ông không quen biết tại bản Huổi Lính, xã Nậm Chà, huyện Nậm Nhùn (Số Heroin mua được bị cáo đã sử dụng hết). Kết quả điều tra không xác định được lai lịch người đàn ông nói trên, nên không có căn cứ để xử lý theo quy định pháp luật. “Vậy HĐXX không đặt vấn đề giải quyết các vấn đề nêu trên”.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1/Tuyên bố bị cáo: Giàng A M phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2/Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; Điểm s khoản 1,2 Điều 51 BLHS.

Xử phạt bị cáo 07 (bẩy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ ngày 01/01/2022.

3/Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự miễn hình phạt tiền hoặc tịch thu tài sản đối với bị cáo.

4/ Về xử lý vật chứng thu giữ: Áp dụng khoản 1 Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS Tịch thu tiêu hủy vì không còn giá trị sử dụng: Toàn bộ vỏ bì và mảnh nilon còn lại sau khi mở niêm phong được cho vào một phong bì niêm phong do Công an huyện Nậm Nhùn phát hành:

+ Mặt trước của bì niêm phong có ghi: vỏ bì và mảnh nilon sau khi mở niêm phong của Giàng A M, sinh năm 1989, trú tại bản Huổi Khương, xã P, huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên. Hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

+ Mặt sau trên mép dán bì niêm phong dùng mảnh giấy trắng đè lên có chữ ký và ghi đầy đủ họ và tên của: Lò Văn Ví, Vũ Mạnh Hiếu, Nguyễn Bá Đoàn, Nguyễn Thành Đạt, Lò Văn Cương, Giàng A M và đóng 02 dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu ở hai đầu mép dán.

5/ Về trách nhiệm dân sự: Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Sùng Thị S vắng mặt tại phiên toà không rõ lý do. Vậy HĐXX quyết định tách riêng phần bồi thường dân sự, nếu có yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo Điều 292 BLTTHS.

6/ Về án phí :Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, của Ủy ban thường vụ Quốc hội bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan báo cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

69
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 39/2022/HS-ST

Số hiệu:39/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nậm Nhùn - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về