Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 39/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 39/2021/HS-ST NGÀY 30/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 37/2021/HS-ST ngày 25 tháng 02 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 40/2021/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 3 năm 2021, đối với bị cáo:

Bùi Công H, sinh ngày 15/10/1973 tại Phú Thọ; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Khu 4, xã S L, thành phố V T, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Quang V (đã chết) và bà Nguyễn Thị L; vợ: Nguyễn Thị H1 (đã ly hôn), con: Có 01 con (sinh năm 2001); tiền án: 03. Tại Bản án số 29/HSST ngày 29/9/2004 của Toà án nhân dân huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Bùi Công H 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, trị giá tài sản chiếm đoạt là 400.000đ, án phí hình sự sơ thẩm 50.000đ. Chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 22/3/2005, khoản án phí đã thi hành xong ngày 02/5/2007. Tại Bản án số 212/HSST ngày 17/11/2005 của Toà án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ xử phạt Bùi Công H 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, án phí hình sự sơ thẩm 50.000đ. Chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 30/9/2011 và đã thi hành xong khoản án phí. Tại Bản án số 253/HSST ngày 24/12/2013 của Toà án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ xử phạt Bùi Công H 08 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm p khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, án phí hình sự sơ thẩm 200.000đ. Chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 27/01/2020, thi hành xong khoản án phí vào ngày 16/6/2014, tiền sự: Không. Nhân thân: Tại quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 130 QĐ/XPVPHC ngày 04/6/2004, Bùi Công H bị Công an thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ xử phạt 100.000đ về hành vi Trộm cắp tài sản, đã nộp theo biên lai thu số 010614 ngày 29/6/2004. Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/12/2020 đến nay, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Vĩnh Phúc (có mặt).

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Đăng T, sinh năm 1975; trú tại: Khu 4, xã S L, thành phố V T, tỉnh Phú Thọ (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 21/12/2020, tại TDP Sơn Cao, phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, tổ công tác Công an phường Đống Đa Công an thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc kiểm tra hành chính phát hiện và lập biên bản sự việc quả tang đối với Bùi Công H về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tang vật thu giữ gồm có: Thu giữ trong lòng bàn tay trái của H 01 gói giấy nhỏ, bên trong có chứa chất cục bột màu trắng, được niêm phong theo quy định của pháp luật ký hiệu là A1. Bùi Công H khai nhận đây là 01 gói ma tuý (Heroine) của H vừa mua được để sử dụng cho bản thân.

Tại Bản Kết luận giám định số 3284/KLGĐ ngày 21/12/2020 của Phòng Kỹ hình sự, Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: Chất cục bột màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma tuý, có khối lượng 0,1628g (Không phảy một sáu hai tám gam, không kể bao bì) loại Heroine.

Hoàn trả trực tiếp đối tượng giám định còn lại sau giám định cho Cơ quan trưng cầu gồm: 0,1217 gam mẫu và toàn bộ bao gói, được niêm phong trong cùng một bao gói giấy “Mẫu trả”, trên giáp lai có chữ ký của người tham gia đóng gói, niêm phong và hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Vĩnh Phúc.

Quá trình điều tra, Bùi Công H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung nêu trên. Đối với số tiền 200.000đ mà Bùi Công H sử dụng để mua ma túy, quá trình điều tra H khai nhận là do lao động hợp pháp mà có, H sử dụng để mua ma túy sử dụng cho bản thân.

Về nguồn gốc số ma túy thu giữ được của Bùi Công H, quá trình điều tra, Cơ quan điều tra Công an thành phố Vĩnh Yên tiến hành xác minh tại Công an phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên không xác định được người nào ở địa chỉ như H khai báo. Ngoài lời khai của H không có căn cứ nào khác để xác định nhân thân, lai lịch của người đã bán ma tuý cho H.

Tại Cáo trạng số: 43/CT-VKSTPVY-VP ngày 24/02/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên đã truy tố bị cáo Bùi Công H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Bùi Công H khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Công H từ 05 năm 03 tháng đến 05 năm 06 tháng tù. Áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ Đối với 0,1217 gam ma túy Heroine cùng toàn bộ bao gói còn lại sau giám định.

Bị cáo không bào chữa và tranh luận gì. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội nêu trên của bị cáo Bùi Công H tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp về thời gian, địa điểm, thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội và hậu quả do tội phạm gây ra, cùng các tang vât đa thu giư, cac tài liệu chứng cứ khác được thu thập khách quan đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ để kết luận:

Khoảng 15 giờ 00 ngày 21/12/2020, tại TDP Sơn Cao, phường Đống Đa thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, Tổ công tác Công an phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên phối hợp với Công an thành phố Vĩnh Yên làm nhiệm vụ phát hiện Bùi Công H có hành vi tàng trữ trái phép 0,1628g ma túy, loại Heroine.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an và an toàn trong xã hội, ảnh hưởng đến nòi giống, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người. Do vậy, cần phải xử lý thật nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[2] Xet tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, cac tinh tiết tăng nặng, giam nhe trach nhiêm hinh sư và nhân thân cua người phạm tội, Hôi đồng xet xư nhân thấy:

Bị cáo phạm tội theo khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, có mức cao nhất của khung hình phạt đến 10 năm tù nên theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 9 của Bộ luật Hình sự thì trường hợp nêu trên thuộc tội phạm rất nghiêm trọng.

Trước khi phạm tội bị cáo là người có nhân thân xấu, bản thân có 03 tiền án: Tại Bản án số 29/HSST ngày 29/9/2004 của Toà án nhân dân huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt Bùi Công H 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 22/3/2005, khoản án phí đã thi hành xong ngày 02/5/2007. Tại Bản án số 212/HSST ngày 17/11/2005 của Toà án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ xử phạt Bùi Công H 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999. Chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 30/9/2011 và đã thi hành xong khoản án phí. Tại Bản án số 253/HSST ngày 24/12/2013 của Toà án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ xử phạt Bùi Công H 08 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 27/01/2020, thi hành xong khoản án phí vào ngày 16/6/2014, các Bản án này của bị cáo chưa được xóa án tích, lần phạm tội này là “Tái phạm nguy hiểm” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra nhân thân của bị cáo còn 01 lần bị Công an thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ xử phạt vi phạm hành chính mức phạt 100.000đ về hành vi Trộm cắp tài sản. Nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để sửa chữa những sai lầm của mình để làm ăn chân chính mà tiếp tục phạm tội chứng tỏ bị cáo là đối tượng rất coi thường pháp luật, không biết ăn năn hối cải để hoàn lương.

Hành vi của bị cáo được thực hiện với lỗi cố ý, hiện tại trên địa bàn thành phố Vĩnh Yên các tội phạm về ma túy có chiều hướng gia tăng, đây là nguyên nhân làm mất ổn định tình hình an ninh chính trị tại địa phương và phát sinh các tội phạm khác trong xã hội. Do đó, cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa để buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người lương thiện, người công dân có ích cho xã hội.

Khi quyết định hình phạt có xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã “Thành khẩn khai báo” để giảm nhẹ một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[3] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Tuy nhiên, bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản và nghề nghiệp ổn định nên Hội đồng xét xử quyết định miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

Đối với mẫu vật hoàn lại sau giám định gồm 0,1217 gam mẫu và toàn bộ bao gói, được niêm phong dán kín trong cùng một bao giấy gói “MẪU TRẢ” cần tịch thu tiêu hủy là đúng quy định của pháp luật.

Đối với 01 chiếc xe mô tô mang biển kiểm soát: 19G1-14071, nhãn hiệu KYMCO tạm giữ của Bùi Công H, quá trình điều tra xác định: Chiếc xe trên là xe của anh Nguyễn Đăng T, sinh năm 1975; hộ khẩu thường trú tại: Xã S L, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Trưa ngày 21/12/2020, H đã mượn xe của anh T để sử dụng đi mua ma túy. Anh T không biết việc H sử dụng xe đi mua ma túy. Do vậy, ngày 30/01/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Vĩnh Yên đã trả lại chiếc xe trên cho anh T. Anh T nhận lại chiếc xe và không có ý kiến gì nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét giải quyết.

[5] Về vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy 0,1217 gam mẫu và toàn bộ bao gói, được niêm phong dán kín trong cùng một bao giấy gói “MẪU TRẢ” còn lại sau giám định.

[6] Về án phí Hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Công H 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo ngày 21/12/2020.

Áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 0,1217 gam mẫu và toàn bộ bao gói, được niêm phong dán kín trong cùng một bao giấy gói “MẪU TRẢ” còn lại sau giám định.

(đặc điểm tang vật như Biên bản bàn giao vật chứng giữa Cơ quan Công an và Cơ quan thi hành án dân sự).

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Bùi Công H phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

119
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 39/2021/HS-ST

Số hiệu:39/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về