TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 39/2021/HS-ST NGÀY 04/08/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 04 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 41/2021/TLST-HS ngày 21 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2021/QĐXXST- HS ngày 23 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo:
Nguyễn Thế H (tên gọi khác: Nguyễn Văn Ư), sinh ngày 01 tháng 9 năm 1965 tại huyện V, tỉnh Thái Bình; nơi cư trú: Thôn H, xã V, huyện V, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 10/10; con ông: Nguyễn Văn N và bà Bùi Thị N (đều đã chết); có vợ thứ nhất: Mai Thị L (đã chết) và 02 con chung; có vợ thứ hai: Vũ Thị T.
- Tiền án:
Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2016/HSST ngày 13 tháng 01 năm 2016 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Thái Bình, xử phạt Nguyễn Thế H 01 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 29 tháng 10 năm 2015 về tội “Trộm cắp tài sản”. H chấp hành xong án phạt tù ngày 29 tháng 10 năm 2016.
Bản án hình sự sơ thẩm số 41/2018/HSST ngày 23 tháng 3 năm 2018 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Thái Bình, xử phạt Nguyễn Thế H 02 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 21 tháng 11 năm 2017 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. H chấp hành xong án phạt tù ngày 20 tháng 9 năm 2019.
- Tiền sự: không - Nhân thân:
Từ tháng 3 năm 1984 đến tháng 3 năm 1987, Nguyễn Thế H thực hiện nghĩa vụ quân sự tại trung đoàn 424, sư đoàn 306.
Ngày 22 tháng 7 năm 2009 Công an phường K, thành phố T xử phạt vi phạm hành chính (cảnh cáo) đối với Nguyễn Thế H về hành vi “Trộm cắp tài sản” .
Ngày 24 tháng 9 năm 2009 Công an phường Đ, thành phố T xử phạt vi phạm hành chính (cảnh cáo) đối với Nguyễn Thế H về hành vi “ Trộm cắp tài sản” .
Quyết định số 2239/QĐ-CT ngày 23 tháng 8 năm 2012 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố T, tỉnh Thái Bình áp dụng biện pháp đưa vào Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động xã hội đối với Nguyễn Thế H trong thời gian 12 tháng (chấp hành xong ngày 31 tháng 7 năm 2013).
Quyết định số 3572/QĐ-CT ngày 20 tháng 12 năm 2013 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố T, tỉnh Thái Bình áp dụng biện pháp đưa vào Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động xã hội đối với Nguyễn Thế H trong thời gian 12 tháng (chấp hành xong ngày 10 tháng 12 năm 2014).
- Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 30 tháng 5 năm 2021 đến ngày 02 tháng 6 năm 2021 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện V, tỉnh Thái Bình. (Có mặt) - Người làm chứng:
1. Anh Nguyễn Tiến V, sinh năm 1973;
Nơi cư trú: Số nhà 6/5, tổ 4, phường P, thành phố T, tỉnh Thái Bình.
2. Anh Bùi Văn B, sinh năm 1974;
Nơi cư trú: Thôn B, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình.
(Anh V, anh B vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 30 tháng 5 năm 2021, Nguyễn Thế H điều khiển xe mô tô từ nhà đến thôn P, xã V, thành phố T, tỉnh Thái Bình để tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây, H gặp và mua của một người đàn ông không biết tên, địa chỉ 01 gói ma túy (Heroine) với giá 200.000 đồng. H cất giấu gói ma túy vào trong túi quần soóc bên trái, phía trước rồi đi về nhà. Khi về đến trục đường liên xã thuộc thôn B, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình H đang dừng xe mô tô trên đường thì bị tổ công tác Công an huyện V yêu cầu kiểm tra. Tổ công tác đã mời 02 người dân chứng kiến, kiểm tra, thu giữ bên trong túi quần soóc bên trái, phía trước H đang mặc 01 gói nhỏ được gói bằng giấy tráng kim màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục và 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu Samsung, vỏ màu vàng. Kiểm tra xe mô tô nhãn hiệu FUTIRFI, màu nâu, biển số đăng ký 18E1-001.xx của H không phát hiện thu giữ gì. Tổ công tác đã tiến hành niêm phong gói nhỏ, bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng thu giữ của Nguyễn Thế H và dẫn giải H đến trụ sở Ủy ban nhân dân xã T, huyện V lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng, tạm quản lý phương tiện và tiến hành trưng cầu giám định. Cùng ngày, khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Thế H tại thôn H, xã V, huyện V, tỉnh Thái Bình nhưng không phát hiện, thu giữ gì.
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như trên.
Kết luận giám định số 187/KLGĐMT-PC09 ngày 31 tháng 5 năm 2021của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Mẫu vật gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,1302 gam (Không phẩy một nghìn ba trăm linh hai gam). Heroine STT: 09, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 và Nghị định 60/2020/NĐ-CP ngày 29 tháng 5 năm 2020 của Chính Phủ” Cáo trạng số 43/CT-VKSVT ngày 20 tháng 7 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình đã truy tố Nguyễn Thế H về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V giữ nguyên quan điểm như đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự, tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thế H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; xử phạt: Nguyễn Thế H mức án từ 05 năm đến 05 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 30 tháng 5 năm 2021. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo vì bị cáo không có tài sản riêng và thu nhập không ổn định.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,0965 gam ma túy, loại Heroine hoàn lại sau giám định trong phong bì số 187/KLGĐMT-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình. Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, vỏ màu vàng, đã qua sử dụng do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về đoàn tụ cùng gia đình và hòa nhập với cộng đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì và không khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Các chứng cứ buộc tội bị cáo:
Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, nội dung bản cáo trạng đã truy tố và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vũ Thư lập hồi 13 giờ 30 phút ngày 30 tháng 5 năm 2021; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình lập hồi 14 giờ 35 phút ngày 30 tháng 5 năm 2021; Biên bản tạm quản lý phương tiện do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vũ Thư lập hồi 14 giờ 50 phút ngày 30 tháng 5 năm 2021; Kết luận giám định số 187/KLGĐMT-PC09 ngày 31 tháng 5 năm 2021 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; Biên bản ghi lời khai của người làm chứng là anh Nguyễn Tiến V và anh Bùi Văn B.
Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 13 giờ 00 phút ngày 30 tháng 5 năm 2021, tại trục đường liên xã thuộc địa phận thôn B, xã T, huyện V, tỉnh Thái Bình, tổ công tác Công an huyện V phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Thế H cất giấu trái phép 01 gói Heroine có khối lượng 0,1302 gam bên trong túi quần soóc bên trái, phía trước, mục đích để sử dụng cho bản thân.
Hành vi của Nguyễn Thế H đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do Nguyễn Thế H đã “tái phạm” chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp “ tái phạm nguy hiểm”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự .
Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
...
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
...
o) Tái phạm nguy hiểm.
...
[3] Đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo:
Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, loại Heroine có khối lượng 0,1302 gam của bị cáo Nguyễn Thế H là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi đó đã xâm phạm đến quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, ngoài ra còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Trong những năm gần đây, tình hình tệ nạn ma túy đã và đang trở thành hiểm họa lớn của toàn nhân loại. Ma túy đã gây tác hại cho sức khoẻ, làm suy thoái nòi giống, phẩm giá con người, phá hoại hạnh phúc gia đình. Đặc biệt, ma túy còn là nguyên nhân chủ yếu làm phát sinh nhiều loại tội phạm, tệ nạn xã hội và lây nhiễm HIV/AIDS.
Bị cáo là người đã thành niên, có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, mặc dù bị cáo biết rõ tác hại của ma túy cũng như mức độ nguy hiểm, hậu quả của hành vi do mình thực hiện nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện tội phạm, thể hiện sự coi thường pháp luật.
[4] Đánh giá về nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo:
Về nhân thân của bị cáo: Bị cáo có nhân thân xấu. Đã từng bị Công an phường K và Công an phường Đ thuộc thành phố Thái Bình xử phạt vi phạm hành chính vào năm 2009 về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Năm 2012 và năm 2013, H bị đưa vào Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động xã hội và đã chấp hành xong nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để rèn luyện, tu dưỡng, cải sửa bản thân mà lại tiếp tục phạm tội.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo H đã “ thành khẩn khai báo” nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra bị cáo còn được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự: Bị cáo đã có thời gian tham gia quân ngũ, có đóng góp nhất định trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; bố đẻ của bị cáo là ông Nguyễn Văn N được Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhất vì có thành tích trong cuộc kháng chiến lâu dài và anh dũng của dân tộc.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Căn cứ vào hành vi phạm tội của bị cáo, nhân thân của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy: Cần xử phạt bị cáo một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, buộc bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian nhất định mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời có tác dụng chung trong việc đấu tranh và phòng ngừa tội phạm.
Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm; tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
Xét thấy, bị cáo Nguyễn Thế H mua ma túy về sử dụng cho bản thân, không nhằm mục đích kiếm lời, bị cáo không có tài sản và không có thu nhập ổn định. Do vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5] Về xử lý vật chứng:
Đối với số ma túy, loại Heroine hoàn lại sau giám định còn 0,0965 gam niêm phong trong phong bì số 187/KLGĐMT-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình là vật chứng của vụ án, thuộc loại Nhà nước độc quyền quản lý và cấm tàng trữ nên cần áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu để tiêu huỷ. Điện thoại di động là tài sản hợp pháp của bị cáo và không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.
[6] Về các vấn đề khác trong vụ án:
Đối với người đàn ông bán ma túy cho Nguyễn Thế H tại thôn P, xã V, thành phố T, tỉnh Thái Bình bị cáo khai không biết tên, địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý.
Chiếc xe mô tô nhãn hiệu FUTIRFI, màu nâu, biển số đăng ký 18E1- 001.46 là tài sản của chị Vũ Thị T (vợ bị cáo); chị T không biết bị cáo sử dụng xe đi mua ma túy nên Cơ quan điều tra đã trả lại xe cho chị T là có căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2, 3 Điều 106; Điều 135; Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý án phí, lệ phí Tòa án:
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thế H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý ”.
2. Về hình phạt: Xử phạt Nguyễn Thế H 05 (Năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 30 tháng 5 năm 2021.
3. Về xử lý vật chứng:
Tịch thu tiêu hủy 0,0965 gam ma túy, loại Heroine hoàn lại sau giám định niêm phong trong phong bì số 187/KLGĐMT-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.
Trả lại bị cáo Nguyễn Thế H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung, vỏ màu vàng, đã qua sử dụng nhưng tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.
(Vật chứng của vụ án đã chuyển Chi cục Thi hành án dân sự huyện V theo biên bản giao nhận vật chứng và phiếu nhập kho vật chứng ghi ngày 22 tháng 7 năm 2021).
4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thế H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Thế H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 04 tháng 8 năm 2021).
“Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án Dân sự”
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 39/2021/HS-ST
Số hiệu: | 39/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vũ Thư - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/08/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về