Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 389/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B - TỈNH Đ

BẢN ÁN 389/2022/HS-ST NGÀY 12/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 353/2022/TLST-HS ngày 09 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 372/2022/QĐXXST-HS ngày 11/8/2022 và Quyết định hoãn phiên toà số: 812/2022/QĐST- QĐ ngày 29/8/2022 đối với bị cáo:

1/ Họ và tên: Nguyễn Minh H, sinh năm 1988; tại tỉnh Đ, tên gọi khác: H1; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: 49, khu phố 1, phường T, thành phố B, tỉnh Đ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 7/12; Con ông Nguyễn Văn H2, sinh năm 1969 (còn sống) và bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1969 (đã chết); Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Có vợ Phạm Thị L, sinh năm 1996 ( đã ly hôn), có 01 con sinh năm 2015.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Ngày 17/01/2011, Nguyễn Minh H bị Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đ xử phạt 07 (Bảy) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Bị cáo đã chấp hành xong bản án.

- Ngày 29/9/2008 Uỷ ban nhân dân tỉnh Đ đưa bị cáo vào trường giáo dưỡng 24 tháng. Đã chấp hành xong.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 28/4/2022, chuyển tạm giam theo lệnh số 546 ngày 07/5/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B.

Bị cáo có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 21 giờ ngày 28/04/2022, H đi bộ đến khu vực trường tiểu học Tr, thuộc khu phố 3A, phường Tr, thành phố B, Đ mua của người đàn ông tên U (chưa rõ lai lịch) 01 gói ma túy tổng hợp (hàng đá) cất giấu bên trong lớp nilon để ở mặt sau bên ngoài gói thuốc lá “Thăng Long” với giá 150.000đ (Một trăm năm mươi nghìn đồng) với mục đích để sử dụng. Sau khi mua được ma túy, H cất giấu vào trong túi quần bên trái phía trước và gọi điện thoại cho anh L1 (là bạn của H - sinh năm 1995, ngụ tại: ấp R, thị trấn P, huyện Th, tỉnh S), nhờ chở đi tìm một người tên Tr1 (chưa rõ nhân thân lai lịch) đã mượn xe mô tô của H.

Vào khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, khi anh L1 đang chở H đến đoạn đường thuộc tổ 7, khu phố 3, phường Tr, thành phố B, Đ thì bị Công an phường Tr phát hiện bắt quả tang cùng tang vật.

* Vật chứng thu giữ:

- 01 gói nilon hàn kín có chứa chất tinh thể màu trắng ;

- 01 xe mô tô biển số 39F3-7253. Quá trình điều tra làm rõ: Xe mô-tô biển số 39F3-7253, do anh Nguyễn Văn H3, sinh năm 1977, ngụ tại: 38B/34B, khu phố 5, phường H4, thành phố B, tỉnh Đ là chủ sở hữu. Anh H3 khai giao xe mô tô trên cho anh L1 sử dụng. Vào ngày 28/4/2022 L1 điều khiển xe mô tô 39F3-7253 chở H đi tìm bạn và không biết H đang tàng trữ trái phép chất ma túy, không liên quan đến hành vi phạm tội của H nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả lại xe mô tô nêu trên cho anh L1.

*Về các vấn đề khác của vụ án: Tại Kết luận giám định số 886/KLGĐ-PC09 ngày 06/5/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,1375 gam, loại: Methamphetamine.

Trong quá trình điều tra và tại phiên toà ngày hôm nay bị cáo đã nhận tội theo như nội dung cáo trạng mô tả và không có ý kiến hay khiếu nại kết luận giám định nêu trên. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo và không có ý kiến về kết luận giám định.

Tại Bản cáo trạng số: 349/CT-VKSBH- HS ngày 25 tháng 7 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị cáo Nguyễn Minh H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” xử phạt bị cáo Nguyễn Minh H mức án từ 16 (mười sáu) đến 20 (hai mươi) tháng tù.

*Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định;

Đối với đối tượng tên U (chưa rõ lai lịch) bán ma tuý cho Nguyễn Minh H cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, xử lý sau.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo sớm về với gia đình và làm công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng trong hồ sơ vụ án: Cơ quan điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, người tham gia tố tụng khác và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện theo quy định pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Minh H đã khai nhận: Vào lúc 23 giờ 30 ngày 28/4/2022, tại đoạn đường thuộc tổ 7, khu phố 3, phường Tr, thành phố B, tỉnh Đ, bị cáo Nguyễn Minh H đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,1375 gam ma túy, loại Methamphetamine thì bị Công an phường Tr phát hiện bắt quả tang và chuyển giao cho Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố B điều tra xử lý. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án; lời khai người làm chứng. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Minh H đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 như nội dung bản cáo trạng số: 349/CT-VKSBH ngày 25 tháng 7 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố là có cơ sở, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và là một trong những nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm cũng như các tệ nạn xã hội khác. Bản thân bị cáo biết rõ việc tàng trữ và sử dụng trái phép chất ma túy bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn vi phạm. Bị cáo có nhân thân xấu, năm 2008 bị đưa vào cơ sở giáo dưỡng, năm 2011 bị Toà án nhân dân thành phố B xử phạt 07 tháng tù về tội “ đánh bạc” nhưng bị cáo không xem đó là bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà vẫn tiếp tục phạm tội. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, cải tạo giáo dục và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có;

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Khi lượng hình phạt đối với bị cáo, xét thấy quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo điều đó cho thấy bị cáo Nguyễn Minh H đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng. Tuy nhiên, căn cứ vào tài liệu chứng cứ tại hồ sơ cho thấy bị cáo không có thu nhập và không có tài sản nào khác. Nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình:

- Tịch thu tiêu hủy số lượng ma tuý sau giám định.

(Biên bản giao nhận vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B ngày 04/8/2022).

- Xe mô-tô biển số 39F3-7253, do anh Nguyễn Văn H3, sinh năm 1977, ngụ tại: 38B/34B, khu phố 5, phường H4, thành phố B, tỉnh Đ là chủ sở hữu. Anh H3 khai giao xe mô tô trên cho anh L1 sử dụng. Vào ngày 28/4/2022 L1 điều khiển xe mô tô 39F3-7253 chở H đi tìm bạn và không biết H đang tàng trữ trái phép chất ma túy, không liên quan đến hành vi phạm tội của H nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả lại xe mô tô nêu trên cho anh L1 là phù hợp.

- Đối với đối tượng tên U (chưa rõ lai lịch) bán ma tuý cho bị cáo Nguyễn Minh H cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, xử lý sau là phù hợp.

[7] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội buộc bị cáo H phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Điều luật áp dụng và xử phạt:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh H: 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù .Thời hạn tù tính từ ngày 28/4/2022.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định.

(Biên bản giao nhận vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B ngày 04/8/2022).

4.Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội buộc bị cáo Hoà phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

73
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 389/2022/HS-ST

Số hiệu:389/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về