Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 38/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH S LA

BẢN ÁN 38/2023/HS-ST NGÀY 21/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 11 năm 2023 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh S La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 36/2023/HSST ngày 07 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2023/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn S, sinh năm 1996, tại Sông Mã, S La.

Nơi cư trú: Bản Nà C, xã Mường H, huyện Sông M, tỉnh S La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt nam; con ông Lò Văn H và bà Vì Thị T; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/9/2023 cho đến nay; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 17 giờ 30 phút ngày 05/9/2023 tổ công tác Công an xã Mường H, huyện Sông Mã làm nhiệm vụ phòng chống ma tuý và test thử ma tuý đối với các đối tượng bị tố giác trên địa bàn xã Mường H. Khi tổ công tác đến nhà Lò Văn S, sinh năm 1996, trú tại bản Nà C, xã Mường H, huyện Sông Mã, thấy S đang ở nhà và có biểu hiện nghi vấn về tội phạm ma tuý nên tổ công tác đã yêu cầu S đem giao nộp các tài liệu, đồ vật liên quan đến hành vi phạm tội, do đó S đã lấy ra từ trong túi quần bên phải ra 01 gói nilon màu trắng, bên trong có viên nén màu hồng để giao nộp cho tổ công tác, sau đó S vào trong phòng mở hộp chứa đồ lấy ra 01 ống hình trụ tròn màu đỏ, bên trong chứa các tinh thể màu trắng để giao nộp (S khai nhận là Hồng phiến và ma tuý đá). Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lò Văn S, thu giữ và niêm phong vật chứng.

Ngày 06/9/2023 tại cơ quan CSĐT Công an huyện Sông Mã, Hội đồng bóc mở niêm phong đã tiến hành cân tịnh, xác định khối lượng và trích mẫu giám định, kết quả:

- 01 viên nén màu hồng có khối lượng là 0,105 gam đã gửi toàn bộ làm mẫu gửi giám định ký hiệu S1;

- Các mảnh tinh thể màu trắng có khối lượng là 0,70 gam đã trích 0,10 gam để làm mẫu gửi giám định ký hiệu S2, vật chứng còn lại là 0,60 gam ký hiệu L.

Tại bản kết luận giám định số 2148/KL ngày 07/9/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh S La, kết luận: “Mẫu ký hiệu S1, S2 gửi giám định đều là ma tuý; loại Methamphetamine, khối lượng của mẫu gửi giám định là S1= 0,105 gam, S2= 0,10 gam. Tổng khối lượng ma tuý thu giữ là 0,805 gam, loại Methamphetamine.” Quá trình điều tra bị cáo Lò Văn S khai nhận hành vi phạm tội như sau: Khoảng 22 giờ ngày 02/9/2023 S đem theo số tiền 200.000 đồng (là tiền do S lao động tiết kiệm mà có) một mình đi bộ từ nhà ở bản Nà C vào bản Nong Sày, xã Mường H để tìm mua ma tuý về sử dụng. Đến bản Nong Sày, S gặp một người đàn ông dân tộc Mông không rõ danh tính và hỏi mua được các mảnh ma tuý đá được gói bằng mảnh nilon màu trắng với số tiền 200.000 đồng. Mua được ma tuý, S đem về nhà sau đó lấy các mảnh ma tuý đá cho vào lọ nhựa màu đỏ rồi giấu vào hộp đựng đồ và để trong phòng ngủ. Khoảng 22 giờ ngày 04/9/2023 S đem theo số tiền 60.000 đồng (là tiền do S lao động tiết kiệm mà có) đi bộ một mình từ nhà ở bản Nà C, xã Mường H đến khu vực cầu treo thuộc bản Chiềng Cang, xã Chiềng Cang, huyện Sông Mã để tìm mua ma tuý về sử dụng. Khi đến nơi, S gặp một nam thanh niên qua nói chuyện người này giới thiệu tên Tiên, nhưng không biết họ, địa chỉ ở đâu. S hỏi mua được 02 viên Hồng phiến được gói bằng mảnh nilon màu trắng với số tiền 60.000 đồng, mua được ma tuý S đem về nhà cất giấu rồi đi ngủ. Khoảng 09 giờ ngày 05/9/2023 S lấy 01 viên Hồng phiến ra để sử dụng bằng hình thức hít, rồi gói viên còn lại bằng mảnh nilon cũ và giấu vào túi quần đang mặc. Đến 17 giờ 30 phút cùng ngày khi S đang ở nhà thì tổ công tác Công an xã Mường H, huyện Sông Mã đến test thử ma tuý, đồng thời vận động nên S đã đem giao nộp toàn bộ số ma tuý đã mua như nêu trên, tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ và niêm phong vật chứng.

Cáo trạng số 210/CT-VKSSM ngày 07 tháng 11 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Sông Mã để xét xử bị cáo Lò Văn S về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Lò Văn S đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật viện dẫn áp dụng như nội dung bản Cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử Tuyên bố bị cáo Lò Văn S phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lò Văn S từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Đề nghị HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự;

điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị:

Tịch thu để tiêu hủy 0,60 gam ma túy, loại Methamphetamine đựng trong một túi nilon màu trắng; 01 ống nhựa hình trụ tròn; 01 mảnh nilon màu trắng; 01 phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở;

Về án phí: Đề nghị miễn án phí cho bị cáo.

Bị cáo Lò Văn S không có ý kiến gì đối đáp với lời luận tội của Kiểm sát viên, khi được nói lời sau cùng, bị cáo chỉ xin được giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra và kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ và toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và điều luật áp dụng: Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Vật chứng thu giữ trong vụ án; Kết luận giám định và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Ngày 05/9/2023 bị cáo Lò Văn S đã có hành vi tàng trữ 0,805 gam ma túy, loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ.

Tại phiên toà bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi, vẫn giữ nguyên lời khai như đã khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án và hoàn toàn nhất trí với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc đã thực hiện. Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố bị cáo về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự; phát biểu luận tội của của Kiểm sát viên tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị mức xử phạt tù giam đối với bị cáo về tội danh nêu trên là phù hợp, có căn cứ, đúng người, đúng pháp luật.

Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi mà bị cáo Lò Văn S thực hiện đã phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, có kH hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

[3] Về tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình là vi phạm điều cấm của pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện, thể hiện sự coi thường pháp luật, vi phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương nên cần xử lý nghiêm.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt chính: Căn cứ tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo; khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ; các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nhân thân của bị cáo, xét thấy cần áp dụng hình phạt tù giam đối với bị cáo và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội cũng như công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm.

[6] Về hình phạt bổ sung là phạt tiền: Hội đồng xét xử thấy bị cáo không có tài sản, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về các vấn đề có liên quan: Đối với người đàn ông dân tộc Mông, không rõ tên, địa chỉ là người đã bán ma tuý cho bị cáo tại bản Nong Sày, xã Mường H, Sông Mã vào ngày 02/9/2023 và người đàn ông tên Tiên bán ma túy cho bị cáo vào ngày 04/9/2023 tại khu vực cầu treo thuộc bản Chiềng Cang, xã Chiềng Cang, huyện Sông Mã. Do không xác định được họ tên đầy đủ và địa chỉ nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án này.

[8] Về xử lý vật chứng: Đối với 0,60 gam ma túy, loại Methamphetamine đựng trong một túi nilon màu trắng; 01 ống nhựa hình trụ tròn; 01 mảnh nilon màu trắng; 01 phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở là vật cấm lưu hành và vật không có giá trị sử dụng, nên cần tịch thu để tiêu hủy.

[9] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, nên được xem xét miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

- Tuyên bố bị cáo Lò Văn S phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Lò Văn S 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 05/9/2023.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu để tiêu huỷ 0,60 gam ma túy, loại Methamphetamine đựng trong một túi nilon màu trắng; 01 ống nhựa hình trụ tròn; 01 mảnh nilon màu trắng; 01 phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở.

(các vật chứng được đựng trong một phong bì thư do Bưu điện Việt Nam phát hành được niêm phong, giấy dán niêm phong có mã số 064600).

Theo Quyết định chuyển vật chứng số: 200/QĐ-VKS ngày 07/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã và Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản lập hồi 14 giờ 30 phút ngày 09 tháng 11 năm 2023 giữa Công an huyện Sông Mã và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Mã.

3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc hội. Bị cáo Lò Văn S được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 21/11/2023).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

63
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 38/2023/HS-ST

Số hiệu:38/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về