Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 38/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG NINH, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 38/2022/HS-ST NGÀY 16/08/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 8 năm 2022, tại Phòng xét xử Tòa án nhân dân huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 28/2022/TLST-HS ngày 05 tháng 7 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2022/QĐXX-ST, ngày 15 tháng 7 năm 2022, đối với:

1. Bị cáo Đặng Việt H, sinh ngày 10 tháng 4 năm 2003 tại H, Q, Quảng Bình; Nơi cư trú: Thôn T, xã H, huyện Q, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Không nghề; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con bà Đặng Thị H; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22 tháng 3 năm 2022, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình, có mặt.

2. Bị cáo Nguyễn Văn T, sinh ngày 04 tháng 3 năm 2004 tại H, Q, Quảng Bình; Nơi cư trú: Thôn B, xã H, huyện Q, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Không nghề; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn B và bà Phạm Thị T; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22 tháng 3 năm 2022, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình, có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Diệp Thị L, sinh năm 1974; nghề nghiệp: Kinh doanh; địa chỉ: Thôn X, xã X, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt;

2. Chị Lê Thị Hồng N, sinh năm 1997; nghề nghiệp: Nhân viên khách sạn; địa chỉ: Thôn X, xã X, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào tối ngày 19 tháng 3 năm 2022, Đặng Việt H và Nguyễn Văn T cùng rủ nhau góp tiền mua ma túy về để sử dụng. Khoảng 16 giờ ngày 20 tháng 3 năm 2022, H gặp T ở thôn T, xã H, huyện Q hỏi mua ma túy; đến 20 giờ cùng ngày, T gọi điện thoại hỏi Hg ở đâu để đem ma túy đến bán, H bảo đang ở tại phòng nghỉ 401, khách sạn H ở thôn X, xã X, huyện Q, tỉnh Quảng Bình. Tại phòng nghỉ 401 có Nguyễn Văn Tn ở cùng H, T góp 600.000 đồng (sáu trăm nghìn đồng) và Đặng Việt H góp 800.000 đồng (tám trăm nghìn đồng) để mua ma túy. Đặng Việt H cầm 1.400.000 đồng (một triệu bốn trăm nghìn đồng) xuống khách sạn gặp T và mua được 26 viên ma túy tổng hợp dạng hồng phiến. Sau khi mua xong, H cầm số ma túy nói trên đi lên phòng nghỉ 401 của Khách sạn H, tại đây T và H cùng nhau sử dụng hết 13 viên ma túy tổng hợp. Đến 20 giờ ngày 22 tháng 3 năm 2022, Công an xã X tiến hành kiểm tra hành chính tại phòng nghỉ 401 phát hiện trong phòng có 01 (một) chai nhựa trong suốt trên thân chai có đục 01 lổ cắm tờ giấy là dụng cụ tự chế để sử dụng ma túy. Tiếp tục kiểm tra, Công an xã X phát hiện tại túi quần sau bên phải của Nguyễn Văn T có 02 (hai) túi nilon trong suốt, trong túi ni lon thứ nhất có chứa 06 (sáu) viên nén hình tròn màu hồng trên bề mặt mỗi viên đều có in chữ “WY” và trong túi ni lon thứ hai có 06 (sáu) viên nén hình tròn màu hồng trên bề mặt mỗi viên nén đều có in chữ “WY” và một số mảnh vỡ vụn màu hồng. Công an xã X tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang tạm giữ số ma túy nêu trên và chuyển giao cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Quảng Ninh điều tra theo thẩm quyền Tại bản kết luận giám định số 371/GĐ-PC09 ngày 23-3-2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình kết luận: 12 (mười hai) viên nén màu hồng trên bề mặt mỗi viên đều có in chữ “WY” và một số mảnh vỡ vụn màu hồng là chất ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng 1,383g (một phẩy ba trăm tám mươi ba gam) nằm trong danh mục các chất ma túy, số thứ tự 323, Danh mục II, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15-5-2018 của Chính phủ.

Về vật chứng: Ngày 22 tháng 3 năm 2022, cơ quan điều tra thu giữ từ Đặng Việt H 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 12 PROMAX màu xám, màn hình bị nứt vỡ, máy đã qua sử dụng; tạm giữ từ Nguyễn Văn T 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu VIVOY21, màu xanh, máy đã qua sử dụng. 01 (một) chai nhựa dụng cụ tự chế để sử dụng trái phép chất ma túy; 01 (một) bật lửa màu đỏ bằng nhựa, trên thân có dòng chu “555 VIP HOA VIỆT” Tại Bản cáo trạng số 29/CT-VKS-MT, ngày 05 tháng 7 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Ninh truy tố bị cáo Đặng Việt H và Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại cơ quan điều tra, Đặng Việt H và Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình nhu đã nêu trên, đúng như nội dung Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Ninh đã truy tố.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Ninh giữ quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật phát biểu quan điểm, luận tội chứng minh bị cáo Đặng Việt H và Nguyễn Văn T đã thực hiện hành vi phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy loại Methamphetamine, số lượng 12 viên và một số mảnh vỡ vụn màu hồng, khối lượng 1,383 gam. Cáo trạng truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt Đặng Việt H mức án từ 12 đến 18 tháng tù; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Văn T mức án từ 12 đến 18 tháng tù; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; căn cứ điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau khi giám định, 01 (một) chai nhựa dụng cụ tự chế để sử dụng trái phép chất ma túy; 01 (một) bật lửa màu đỏ bằng nhựa, trên thân có dòng chữ “555 VIP HOA VIỆT”; trả lại 01 điện thoại di động PHONE 12 PROMAX màu xám cho bị cáo Đặng Việt H, 01 điện thoại di động nhãn hiệu VIVOY21, màu xanh cho bị cáo Nguyễn Văn T.

Bị cáo Đặng Việt H và Nguyễn Văn T nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát và lời luận tội của Kiểm sát viên, hối hận về hành vi phạm tội của mình, tỏ thái độ ăn năn hối cải, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, sớm trở về hòa nhập cộng đồng, có điều kiện giúp đỡ gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quảng Ninh, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Ninh, Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của các bị cáo thống nhất, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án; phù hợp về thời gian, địa điểm và quá trình diễn biến của vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 16 giờ ngày 20 tháng 3 năm 2022, Đặng Việt H góp 800.000 đồng và Nguyễn Văn T góp 600.000 đồng để mua ma túy về sử dụng tại Khách sạn H ở thôn X, xã X. Tại đây, T và H cùng nhau sử dụng hết 13 viên ma túy tổng hợp. Đến 20 giờ ngày 22 tháng 3 năm 2022, Công an xã X bắt quả tang Nguyễn Văn T tàng trữ ở túi quần sau bên phải 12 viên nén màu hồng và một số mảnh vỡ vụn màu hồng, có khối lượng 1,383 (một phẩy ba trăm tám mươi ba gam) là ma túy loại Methamphetamine mục đích để sử dụng.

Các Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, có tính chất nghiêm trọng, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự trị an trên địa bàn, ý thức được điều đó nhưng để thỏa mãn nhu cầu của bản thân các bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, có đủ cơ sở để khẳng định: Hành vi của bị cáo Đặng Việt Hoàng và Nguyễn Văn Tuân có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Các Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo Đặng Việt H có mẹ đơn thân bị nhiễm chất độc da cam, bị cáo là lao động chính trong gia đình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xét vai trò của các bị cáo trong vụ án, Hội đồng xét xử nhận thấy đây là vụ án đồng phạm nhưng mang tính chất giản đơn, các bị cáo cùng rủ nhau góp tiền mua ma túy sử dụng, không có chuẩn bị, sự bàn bạc, phân công cụ thể. Tuy nhiên, bị cáo Hoàng là người trực tiếp mua ma túy và góp số tiền nhiều hơn, bị cáo Tuân là người tàng trữ số ma túy trong túi quần. Do đó, các bị cáo phải chịu mức hình phạt nghiêm.

Hội đồng xét xử thấy trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét thấy cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, đồng thời cần có một mức hình phạt phù hợp đối với từng bị cáo nhằm tiếp tục răn đe, giáo dục, cải tạo các bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

Trong vụ án này, Bị cáo Đặng Việt H và Nguyễn Văn T khai nhận cả hai cùng góp tiền để H đi mua ma túy từ một người tên T không rõ năm sinh ở thôn T, xã H. Qua xác minh, đối tượng tên T có tên đầy đủ Nguyễn Hoàng Tấn T, sinh năm 2000. Hiện tại, T không có mặt tại địa phương không rõ đi đâu từ đầu tháng 3/2022. Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra và xử lý sau.

Qúa trình điều tra, xác định chủ khách sạn H là của bà Diệp Thị L, sinh năm 1974, ở thôn X, xã X. Chị Lê Thị Hồng N sinh năm 1997, ở thôn X, xã X là lễ tân của khách sạn. Chị L và chị N đều không biết việc Nguyễn Văn T và Đặng Việt H phòng nghỉ của khách sạn H để sử dụng ma túy nên không xem xét xử lý trách nhiệm hình sự.

[4] Về vật chứng vụ án: Khối lượng chất ma túy thu giữ trong vụ án sau khi đã giám định còn 1,244 gam là vật cấm tàng trữ, lưu hành; 01 (một) chai nhựa dụng cụ tự chế để sử dụng trái phép chất ma túy; 01 (một) bật lửa màu đỏ bằng nhựa, trên thân có dòng chữ “555 VIP HOA VIỆT” không còn giá trị nên tịch thu tiêu hủy theo điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 12 PROMAX màu xám, màn hình bị nứt vỡ, máy đã qua sử dụng của Đặng Việt H; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu VIVOY21, màu xanh, máy đã qua sử dụng của Nguyễn Văn T không liên quan đến việc tàng trữ ma túy nên cần trả lại cho các bị cáo theo điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Đặng Việt H và Nguyễn Văn T phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Các Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 36; điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự;

Căn cứ điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136; Điều 260; khoản 1 Điều 268, khoản 1 Điều 269; khoản 1 Điều 298; khoản 1, 4 Điều 331; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh và hình phạt:

Tuyên bố bị cáo Đặng Việt H và Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Đặng Việt H 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 22 tháng 3 năm 2022.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 22 tháng 3 năm 2022.

2. Về xử lý vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy vật 1,244 gam (một phẩy hai trăm bốn mươi bốn gam) Methamphetamine đã được niêm phong trong phong bì số 371/GĐ-PC09 ngày 29/3/2022; 01 (một) chai nhựa dụng cụ tự chế để sử dụng trái phép chất ma túy; 01 (một) bật lửa màu đỏ bằng nhựa, trên thân có dòng chữ “555 VIP HOA VIỆT”.

Trả lại cho bị cáo Đặng Việt H 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 12 PROMAX màu xám, màn hình bị nứt vỡ, máy đã qua sử dụng; trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn T 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu VIVOY21, màu xanh, máy đã qua sử dụng. Tất cả vật chứng, tài sản trên có đặc điểm nhu trong biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quảng Ninh và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quảng Ninh ngày 12 tháng 7 năm 2022.

3. Án phí sơ thẩm: Buộc bị cáo Đặng Việt H và Nguyễn Văn T mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Các Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

98
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 38/2022/HS-ST

Số hiệu:38/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quảng Ninh - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về