Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 38/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 38/2021/HS-ST NGÀY 30/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 42/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 40/2021/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

Trần Văn Ph, sinh năm 1989 tại Nam Định;

Nơi cư trú: Xóm T, xã N, huyên N, tỉnh Nam Định. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn Đ, sinh năm 1953 và bà Đặng Thị H, sinh năm 1954, cả hai đang làm ruộng tại Xóm T, xã N, huyên N, tỉnh Nam Đ ịnh; gia đình có 07 anh chị em Ph là con thứ 07; Vợ, con: Không có;

Nhân thân: Ngày 30/6/2016, Tòa án nhân dân huyện N quyết định miễn trách nhiệm hình sự cho Trần Văn Ph, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Miễn trách nhiệm hình sự do có sự thay đổi chính sách pháp luật làm cho hành vi phạm tội của bị cáo không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. (Công văn số 234/TANDTC- HS ngày 17/9/2014 của Toà án nhân dân Tối cao).

Tiền sự: Không.

Tiền án: Ngày 06/5/2020, bị Tòa án nhân dân huyện N xử phạt 01 năm 03 tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Trần Văn Ph bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 10/5/2021 đến ngày 12/5/2021 chuyển tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện N; có mặt.

- Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Ngọc H – Sinh năm 1955; vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Văn T – Sinh năm 1975; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại Phên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Ngày 08 tháng 5 năm 2021, Trần Văn Ph đi xe buýt lên khu vực Cầu Đ, thành phố Nam Định mua của một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ 04 gói ma túy đá với giá 500.000 đồng, mục đích để sử dụng. Sau khi mua được 04 gói ma túy đá, Ph cất ở trong túi quần của Ph đang mặc rồi đi xe buýt về thị trấn Q, huyện N. Khoảng 18 giờ cùng ngày, Ph đến nhà nghỉ Q thuộc tổ dân phố 2, thị trấn Q, huyện N, tỉnh Nam Định thuê phòng 105 để nghỉ trọ. Khoảng 18 giờ ngày 09 tháng 5 năm 2021, tại Phòng 105 nhà nghỉ Q, Ph lấy 03 gói ma túy đá ở trong túi quần ra cất giấu dưới đệm giường ngủ, gói còn lại Ph mang ra sử dụng nhưng không hết, Ph gói lại và cất vào túi quần của Ph để ở dưới sàn phòng 105. Khoảng 21 giờ cùng ngày, Nguyễn Văn Đ đến nhà nghỉ Q để thuê phòng nghỉ. Tại đây, Đ gặp Ph, Ph mời Đ đến phòng 105 ngồi chơi (Ph và Đ là bạn bè quen biết; việc Ph sử dụng và tàng trữ trái phép chất ma túy đá tại phòng 105 nhà nghỉ Q, Đ không biết và việc Đ có quyết định truy nã về tội cố ý gây thương tích Ph không biết). Cả hai ngồi nói chuyện khoảng 45 phút thì tổ công tác Công an huyện N kiểm tra hành chính tại phòng 105 nhà nghỉ Q, phát hiện bắt quả tang Trần Văn Ph có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ dưới đệm giường ngủ Phòng 105 nhà nghỉ Q nơi Ph thuê trọ 03 gói nhỏ, vỏ là túi ni lông màu trắng, bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng. Thu giữ trong túi quần màu đen bên trái của Ph để ở trên sàn phòng nghỉ 01 gói nhỏ, vỏ là túi ni lông màu trắng, bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng. Tổ công tác Công an huyện N đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong số ma tuý thu giữ (04 gói ma túy trên được niêm phong ký hiệu M).

Khám xét khẩn cấp phòng 105 nhà nghỉ Q, thuộc tổ dân phố 2, thị trấn Q và nơi ở của Trần Văn Ph ở xóm T, xã N. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N không thu giữ thêm đồ vật, tài liệu gì. Tổ công tác Công an huyện N bắt truy nã Nguyễn Văn Đ về tội Cố ý gây thương tích.

Tại bản kết luận giám định số 589/GĐKTHS ngày 11 tháng 5 năm 2021 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định, kết luận: Mẫu rắn dạng tinh thể màu trắng trong 04 gói nhỏ vỏ ni lông màu trắng trong phong bì thư được niêm phong ký hiệu M gửi giám định đều là ma túy. Loại ma túy: Methamphetamine. Tổng khối lượng mẫu M: 0,342 gam.

Bản cáo trạng số 46/CT-VKS ngày 31 tháng 05 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo Trần Văn Ph về tội “Tàng trữ trái phép ch ất ma tuý” theo điêm c khoản 1 Điêu 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên toà hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, nguyên nhân, điều kiện phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như tội danh và điều luật đã nêu; Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điêm c khoản 1 Điêu 249; điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt Trần Văn Ph từ 01 (Một) năm 09 (Chín) tháng đên 02 (Hai) năm 03 (Ba) tháng tù; Đề nghị miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo; Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự để xử lý vật chứng; Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Điều 6, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội để buộc bị cáo phải nộp án phí theo quy định.

Tại phiên toà hôm nay qua xét hỏi và tranh luận bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã nêu. Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại Phên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; người làm chứng không có khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo Trần Văn Ph tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu đã được xác lập có trong hồ sơ vụ án cũng như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo ra trước phiên tòa hôm nay. Như vậy đã có đủ cơ sở xác định: Khoảng 21 giờ 45 phút ngày 09 tháng 5 năm 2021, tại phòng 105 nhà nghỉ Q, thuộc tổ dân phố 2, thị trấn Q, huyện N, tỉnh Nam Định, Trần Văn Ph có hành vi tàng trữ trái phép 0,342 gam Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị tổ công tác Công an huyện N phát hiện bắt quả tang. Hành vi của Trần Văn Ph là nguy hiểm cho xã hội , đã xâm phạm tới chế độ quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm trật tự trị an, an toàn xã hội trong khu vực, làm ảnh hưởng đến nếp sống văn hoá của dân tộc. Bị cáo là người đã thành niên có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự nhưng vẫn cố ý thực hiện tội phạm. Vì vậy việc đưa bị cáo ra xét xử công khai, lên án xử lý nghiêm minh là cần thiết nhằm góp phần vào việc đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ gìn kỷ cương tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

[3] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Bị cáo là là người có nhân thân xâu. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 06/5/2020, Trần Văn Ph bị Tòa án nhân dân huyện N xử phạt 01 năm 03 tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chưa được xóa án tích, nên lần phạm tội này bị cáo Trần Văn Ph bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong giai đoạn điều tra, truy tố cũng như tại phiên toa, Trần Văn Ph thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Từ những phân tích, đánh giá nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, tập trung cải tạo đối với bị cáo nhằm trừng trị, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên toà cho thấy gia đình bị cáo khó khăn, bị cáo còn sống chung với gia đình không sở hữu tài sản có giá trị. Vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình bổ sung đối với bị cáo.

[5] Đối với người đàn ông bán ma túy cho Trần Văn Ph tại khu vực Cầu Đ, thành phố Nam Định ngày 08 tháng 5 năm 2021, hiện chưa xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N tiếp tục điều tra, xử lý sau là phù hợp.

[6] Đối với anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1976 là chủ nhà nghỉ Q, ở tổ dân phố 2, thị trấn Q, huyện N, Nam Định cho Trần Văn Ph thuê Phòng 105 để nghỉ trọ. Anh T không biết việc Ph sử dụng và tàng trữ trái phép chất ma túy tại Phòng 105 của nhà nghỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N không xử lý theo quy định pháp luật là phù hợp.

Việc Trần Văn Ph sử dụng và tàng trữ trái phép chất ma túy đá tại phòng 105 nhà nghỉ Q, Nguyễn Văn Đ không biết và việc Đ có quyết định truy nã về tội “Cố ý gây thương tích” Ph không biết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N không xử lý Ph và Đ theo quy định pháp luật là phù hợp.

[7] Về vật chứng của vụ án: Đối với số ma túy được niêm phong trong 01 phong bì số 589/GĐKTHS ngày 11/5/2021của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định hoàn trả sau giám định cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Trần Văn Ph phải chịu án phí theo quy định tại Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Điều 6, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[9] Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện N là phù hợp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điêm c khoản 1 Điêu 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 47 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ vào Điều 106; Điều 135, Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự và Điều 6, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

1. Tuyên bố bị cáo Trần Văn Ph phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt bị cáo Trần Văn Ph 01 (Một) năm 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10 tháng 5 năm 2021.

3. Về vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong số 589/GĐKTHS ngày 11/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định hoàn trả sau giám định.

Toàn bộ vật chứng của vụ án đang được quản lý tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện N theo biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 01 tháng 6 năm 2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N với Chi cục Thi hành án dân sự huyện N.

4. Về án phí: Buộc bị cáo Trần Văn Ph phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án và người được thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

131
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 38/2021/HS-ST

Số hiệu:38/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về