Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 38/2021/HSST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ LA GI, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 38/2021/HSST NGÀY 06/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 5 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã La Gi, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 37/HSST ngày 08 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Lê Văn T, sinh năm 1990, tại: Bình Thuận. Nơi đăng ký HKTT: Khu phố 8, phường Đ N, PT, Bình Thuận. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh, Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do, trình độ học vấn: 05/12.

Cha: Lê Văn Á (đã chết). Mẹ: Cao Thị M, sinh năm: 1968, Vợ, con: Không. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo Lê Văn T bị bắt và tạm giữ từ ngày 13/01/2021 hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thị xã La Gi.

Bị cáo có mặt.

*Vật chứng cần đưa ra xem xét tại phiên tòa: Không.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào lúc 15 giờ 00 phút ngày 13/01/2021, tại đường hẻm gần nhà số 84 đường C D, khu phố 02, phường P , thị xã La Gi, Đội phòng, chống ma túy và tội phạm Đồn Biên phòng P L bắt quả tang Lê Văn T, đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Trong quá trình làm việc, Thành khai nhận tại phòng trọ nơi T ở tại khu phố 02, phường P, La Gi, T đang cất giấu 01 bịch ma túy đá. Các tang vật thu giữ của T gồm: 1.020.000 đồng tiền mặt; 01 bịch nilon màu trắng, một đầu có nhíp kéo màu xanh dương, kích thước 04x04cm, bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng, dạng rắn; 01 bịch nilon màu trắng, được hàn kín, kích thước 1,5x2,5cm, bên trong có chứa các hạt tinh thể dạng rắn, màu trắng; 01 hộp nhựa có nắp đậy màu xanh, kích thước 06x04cm; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá.

Theo kết luận giám định số 64/KLGĐ-PC09 ngày 18/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận kết luận: Mẫu M1 gửi giám định có khối lượng 1,4081 gam, là Methamphetamine; Mẫu M2 gửi giám định có khối lượng 0,3626 gam, là Methamphetamine. Tổng khối lượng ma túy T tàng trữ là 1,7707 gam, là Methamphetamine.

Về vật chứng vụ án: 01 phong bì niêm phong số 64; 01 hộp nhựa có nắp đậy màu xanh, kích thước 06x04cm; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm 01 chai nhựa màu trắng trên nắp đục hai lỗ tròn, 01 ống thủy tinh cong, 01 ống hút nước giải khát màu trắng. Các vật chứng trên hiện đang được Chi cục Thi hành án dân sự thị xã La Gi quản lý theo biên bản giao nhận ngày 08/4/2021. Số tiền 1.020.000 đồng hiện đã trả cho chủ sở hữu là Lê Văn T.

Sau khi phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ những chứng cứ xác định có tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân bị cáo; tội danh, hình phạt, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã La Gi giữ quyền công tố kết luận: Giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung bản cáo trạng số: 42/CT-VKS ngày 05/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã La Gi truy tố bị cáo Lê Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lê Văn T phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015. Phạt bị cáo Lê Văn T mức án từ 18 đến 24 tháng tù. Biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 64 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận, một hộp nhựa có nắp đậy màu xanh và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá thu giữ của bị cáo Lê Văn T.

Ý kiến của bị cáo: Tha nhận hành vi tàng trữ ma túy và đồng ý với nội dung luận tội của Kiểm sát viên nên không có ý kiến tranh luận.

* Bị cáo Lê Văn T nói lời sau cùng: Bị cáo thấy hành vi của mình là sai trái, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã La Gi, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã La Gi, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Tại phiên tòa, xét thấy lời khai của bị cáo Lê Văn T khai nhận phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, đối chiếu với những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở và căn cứ pháp lý kết luận: Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 13/01/2021, tại đầu hẻm gần nhà số 84 thuộc khu phố 02, phường P , thị xã La Gi, Lê Văn T bị lực lượng Biên phòng P L kiểm tra, bắt quả tang đang có hành vi tàng trữ khối lượng 1,7707 gam, là Methamphetamine với mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo Lê Văn T đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã La Gi truy tố đối với bị cáo Lê Văn T về tội danh, Điều luật là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Bị cáo Lê Văn T là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được mức độ nguy hiểm và tác hại của ma túy gây ra cho người sử dụng nhưng vì để có ma túy sử dụng mà bị cáo bất chấp hậu quả xảy ra. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương, cần phải xử lý nghiêm trước pháp luật nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có [5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo Lê Văn T khai báo thành khẩn, là người có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[6] Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: Các gói ni lon đã cắt lấy mẫu và vật chứng còn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 64 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận, một hộp nhựa có nắp đậy màu xanh và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá thu giữ của bị cáo Lê Văn T cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo Lê Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt Bị cáo Lê Văn T 24 tháng tù (bằng chữ: hai mươi bốn tháng tù), thời hạn chấp hành hình phạt tính từ 13/01/2021.

Áp dụng: Khon 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106, Điều 135, Điều 136, Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 64 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận, một hộp nhựa có nắp đậy màu xanh và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá thu giữ của Lê Văn T theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/4/2021 giữa Công an thị xã La Gi và Chi cục thi hành án dân sự thị xã La Gi.

Về án phí: Bị cáo Lê Văn T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

344
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 38/2021/HSST

Số hiệu:38/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị Xã La Gi - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về