Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 374/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 374/2022/HS-ST NGÀY 29/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 9 năm 2022 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 233/2022/TLST-HS ngày 02 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 262/2022/QĐXXST-HS ngày 15/8/2022 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Trần Văn Q, tên gọi khác: Không; sinh ngày 24 tháng 3 năm 1969; ĐKHKTT: Tổ 05, phường Q Vinh, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên; Chỗ ở: Tổ 03, phường Tân lập, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 07/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn C (Đã chết) và con bà Lương Thị T (Đã chết); Vợ, con: Chưa có:

Tiền án: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 367 ngày 29/9/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xử phạt 10 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/12/2018, chưa thi hành xong hình phạt bổ sung và án phí.

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Tại Quyết định số 2747 ngày 13/10/1998 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục với thời hạn 24 tháng, chấp hành xong tháng 09 năm 2000; Tại bản án hình sự sơ thẩm số 314 ngày 28/11/1994 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xử phạt 09 tháng tù về tội “Tổ chức dùng chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 08/5/1995;Tại bản án hình sự sơ thẩm số 386 ngày 19/10/1996 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xử phạt 15 tháng tù về tội “Công nhiên chiếm đoạt tài sản”. Bản án hình sự phúc số 309 ngày 16/12/1996 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên, giữ nguyên bản án sơ thẩm xử phạt Trần Văn Q 15 tháng tù về tội “Công nhiên chiếm đoạt tài sản”; Tại bản án hình sự sơ thẩm số 58 ngày 21/5/2001 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 19/6/2002;Tại bản án hình sự sơ thẩm số 04 ngày 11/02/2004 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên xử phạt 7 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/11/2009, thi hành xong án phí ngày 09/6/2008.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/3/2022 đến nay, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên.(Có mặt tại phiên tòa)

2. Họ và tên: Nguyễn Văn H, tên gọi khác:không; Sinh ngày 23 tháng 4 năm 1959; ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ 10, phường T, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 07/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn Ph (Đã chết) và con bà: Nguyễn Thị V; có vợ: Nguyễn Thị Ph, có 02 con.

Tiền án: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 47 ngày 01/9/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xử phạt 15 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/4/2020.

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 08 ngày 26/02/2003 của Tòa án nhân dân thị xã Bắc Kạn xử phạt 54 tháng tù về tội “Tàng trữ, lưu hành tiền giả”. Thi hành xong bản án ngày 22/6/2005.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/3/2022 đến nay, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên.(Có mặt tại phiên tòa)

* Người làm chứng: Ông Vũ Công Ph, sinh năm 1967, trú tại: Tổ 12, phường Q , thành phố T, tỉnh Thái Nguyên (vắng mặt).

* Người chứng kiến:

1. Ông Nguyễn Xuân V, sinh năm 1964, trú tại: Tổ 04, phường Tr, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên (vắng mặt).

2. Ông Lê Văn H, sinh năm 1957, trú tại: Tổ 10, phường T, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên (vắng mặt).

3. Bà Nguyễn Thị Ph, sinh năm 1962, trú tại: Tổ 10, phường Tr, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên (vắng mặt).

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Đinh Thị L, sinh năm 1957, trú tại: Tổ 12, phường Tr, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 17 giờ 00 phút ngày 15/3/2022, tại khu vực cổng phụ sân vận động tỉnh Thái Nguyên thuộc tổ 10, phường T, thành phố Thái Nguyên, đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Thái Nguyên phát hiện 02 người nam giới đang ngồi trên xe mô tô nhãn hiệu Honda BKS: 20M8-X có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác áp sát và yêu cầu kiểm tra thì người nam giới thứ nhất khai họ tên là Vũ Công P (Sinh năm 1967, trú tại: Tổ 12, phường Q Trung, thành phố Thái Nguyên), người nam giới thứ hai khai họ tên là Trần Văn Q. Quá trình kiểm tra người Vũ Công P tổ công tác không phát hiện thu giữ đồ vật gì, kiểm tra người Trần Văn Q phát hiện và thu giữ tại túi quần phía trước bên phải Q đang mặc có 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart và 01 túi nilon màu xanh bên trong có 191 viên nén màu hồng và 02 viên nén màu xanh. Q khai số viên nén màu hồng và màu xanh là ma túy tổng hợp loại “hồng phiến” Q vừa mua của Nguyễn Văn H với giá 7.000.000 đồng, mục đích để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Q, thu giữ và niêm phong vật chứng theo quy định, ngoài ra tổ công tác còn tạm giữ của Q 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart, tạm giữ của P 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda BKS: 20M8-X.

Hồi 18 giờ 45 phút cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên thi hành Lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Văn H, phát hiện và thu giữ tại ngăn kéo tủ gỗ trong phòng ngủ: 01 lọ nhựa màu vàng bên trong chứa 16 viên nén màu hồng, 01 viên nén màu xanh và chất bột màu vàng hồng; 01 lọ nhựa có nắp màu vàng bên trong chứa 29 viên nén màu hồng và 01 viên nén màu xanh; 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa 37 viên nén màu hồng; 01 túi nilon màu xanh bên trong chứa 87 viên nén màu hồng và 01 viên nén màu xanh; 20 túi nilon màu trắng kích thước (3 x 5) cm có mép dán; Thu giữ tại túi quần bên trái phía trước của Nguyễn Văn H số tiền 6.800.000 đồng.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên tiến hành cân kiểm tra lấy mẫu gửi giám định số viên nén nghi ma túy thu giữ của Trần Văn Q, có khối lượng cụ thể: Số viên nén màu hồng có khối lượng 18,24 gam, lấy 0,961 gam niêm phong vào bì ký hiệu Q1 gửi giám định còn 17,279 gam niêm phong vào bì ký hiệu Q2 lưu kho; Số viên nén màu xanh có khối lượng 0,189 gam và lấy toàn bộ niêm phong vào bì ký hiệu Q3 gửi giám định;

Số viên nén nghi ma túy thu giữ tại chỗ ở của Nguyễn Văn H, có khối lượng cụ thể:Số viên nén màu hồng có khối lượng 17,087 gam, lấy 1,01 gam niêm phong vào bì ký hiệu H1 gửi giám định còn 16,077 gam niêm phong vào bì ký hiệu H2 lưu kho; Số viên nén màu xanh có khối lượng 0,278 gam và lấy toàn bộ niêm phong vào bì ký hiệu H3 gửi giám định; Số chất bột màu vàng hồng có khối lượng 1,301 gam và lấy toàn bộ niêm phong vào bì ký hiệu H4 gửi giám định.

Tại bản kết luận giám định số 498 ngày 24/3/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận:Các viên nén màu hồng trong phong bì ký hiệu H1 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng thu giữ ban đầu là 17,087 gam;Các viên nén màu xanh trong phong bì ký hiệu H3 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng thu giữ ban đầu là 0,278 gam;Chất bột màu vàng hồng trong phong bì ký hiệu H4 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng thu giữ ban đầu là 1,301 gam;Các viên nén màu hồng trong phong bì ký hiệu Q1 gửi giám định là chất ma túy loại Methamphetamine. Khối lượng thu giữ ban đầu là 18,24 gam;

Các viên nén màu xanh trong phong bì ký hiệu Q3 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng thu giữ ban đầu là 0,189 gam).

Tại cơ quan điều tra Nguyễn Văn H và Trần Văn Q khai nhận: Khoảng 14 giờ 00 phút, ngày 13/3/2022 H đi từ nhà đến khu vực Trung tâm thương mại Vincom plaza Thái Nguyên thuộc Q Trung, thành phố Thái Nguyên, mục đích tìm mua ma túy để sử dụng cho bản thân, đến nơi H gặp và mua của 01 nam thanh niên không rõ lai lịch địa chỉ 5.000.000 đồng được 182 viên ma túy loại “hồng phiến”. Sau khi mua được ma túy H mang về nhà sử dụng hết 10 viên, số còn lại H cất giấu vào 02 lọ nhỏ và 02 túi ni lon để sử dụng dần. Đến khoảng 12 giờ 00 phút ngày 15/3/2022 Trần Văn Q gọi điện thoại hỏi mua 7.000.000 đồng ma túy loại “hồng phiến”, H nhất trí rồi tiếp tục ra khu vực Trung tâm thương mại Vincom plaza Thái Nguyên gặp và mua của 01 nam thanh niên không rõ lai lịch địa chỉ 6.200.000 đồng được 193 viên ma túy loại ‘hồng phiến” được đựng trong 01 túi ni lon màu xanh, mục đích để bán cho Trần Văn Q. Sau khi mua được ma túy H mang về nhà cất giấu, đến khoảng 17 giờ 00 phút cùng ngày khi Q đến thì H đã bán cho Q với giá 7.000.000 đồng nhưng Q trả cho H 6.800.000 đồng. Đến 18 giờ 45 phút cùng ngày khi H đang ở nhà thì Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên đến thi hành Lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở phát hiện và thu giữ trong ngăn kéo tủ gỗ trong buồng ngủ số ma túy mà H cất giấu để sử dụng cho bản thân, cụ thể: 45 viên hồng phiến trong 02 chiếc lọ nhựa, 124 viên hồng phiến trong 02 túi nilon, 20 túi nilon màu trắng kích thước (3 x 5) cm và 6.800.000 đồng là tiền H bán ma túy cho Q.

Lời khai nhận tội của Nguyễn Văn H và Trần Văn Q phù hợp với nhau và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét khẩn cấp, vật chứng thu giữ, kết luận giám định, lời khai người làm chứng, lời khai người chứng kiến và các tài liệu khác quá trình điều tra thu thập được.

Vật chứng của vụ án: 09 bì niêm phong ký hiệu H1, H2, H3, H4, H5, Q1, Q2, Q3, Q4 bên trong chứa ma túy và vỏ bao gói ban đầu; 01 bì niêm phong ký hiệu Q9 bên trong có 01 chiếc điện thoại di động; 20 túi nilon màu trắng kích thước (3 x 5) cm và 6.800.000 đồng. Hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng và tài khoản của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên.

01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda BKS 20M8 - X, Cơ quan điều tra đã trả lại cho bà Đinh Thị Liên (Sinh năm 1957, trú tại: Tổ 12, phường Q Trung, thành phố Thái Nguyên) là chủ sở hữu quản lý sử dụng.

Tại bản Cáo trạng số 245/CT-VKSTPTN ngày 01 tháng 8 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã quyết định truy tố Trần Văn Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g, o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự; truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i, q khoản 2 Điều 251 và điểm g, o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội cũng như nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo,đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Trần Văn Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị: Áp dụng điểm g,o khoản 2 Điều 249, Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt: Trần Văn Q từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

* Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “Mua bán trái phép chất ma túy”:

- Áp dụng điểm i, q khoản 2 Điều 251; điểm g,o khoản 2 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 55 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 10 năm đến 11 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Phạt bổ sung bị cáo H từ 10.000.000đồng đến 15.000.000đồng nộp ngân sách Nhà nước.

- Tổng hợp hình phạt: Buộc bị cáo Nguyễn Văn H phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là từ 17 năm 06 tháng tù đến 18 năm tù.

Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; §iều 47 Bộ luật hình sự: Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tịch thu, tiêu hủy: 09 bì niêm phong ký hiệu H1,H2,H3,H4,H5,Q1,Q2,Q3 Q4 bên trong chứa ma túy và vỏ bao gói ban đầu; 20 túi nilon màu trắng kích thước (3 x 5)cm Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: Số tiền 6.800.000đ (Sáu triệu tám trăm nghìn đồng) theo ủy nhiệm chi số 40 ngày 27/7/2022 của Nguyễn Văn H; 01 (một) điện thoại di động được niêm phong trong bì ký hiệu Q9 của Trần Văn Q.

Về án phí và quyền kháng cáo: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Trần Văn Q không tranh luận, bị cáo thừa nhận việc truy tố và xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g,o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự là không oan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Bị cáo Nguyễn Văn H không tranh luận, bị cáo thừa nhận việc truy tố và xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g,o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự và tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm i, q khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự là không oan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Phần lời nói sau cùng bị cáo Trần Văn Q và bị cáo Nguyễn Văn H xin giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, điều tra viên;

Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn H và bị cáoTrần Văn Q và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo Nguyễn Văn H và Trần Văn Q thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội do các bị cáo thực hiện.Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên toà là khách quan phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan với vật chứng đã thu được, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định, vật chứng thu giữ và các chứng cứ tài liệu khác được thu thập hợp lệ có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Hồi 17 giờ 00 phút ngày 15/3/2022 tại khu vực cổng phụ sân vận động thành phố Thái Nguyên, thuộc tổ 10, phường T, thành phố Thái Nguyên, Trần Văn Q đang có hành vi tàng trữ 18,429 gam Methamphetamine, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Thái Nguyên phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng, nguồn gốc số Methamphetamine Q khai vừa mua của Nguyễn Văn H với giá 6.800.000 đồng. Hồi 18 giờ 45 phút cùng ngày thi hành Lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Văn H tại tổ 10, phường T, thành phố Thái Nguyên, phát hiện và thu giữ bên trong ngăn kéo tủ gỗ trong phòng ngủ của H 18,666 gam Methamphetamine và số tiền 6.800.000 đồng, H khai mục đích cất giấu số ma túy là để sử dụng cho bản thân và khai nhận đã bán 18,429 gam Methamphetamine cho Q.

Hành vi nêu trên của Trần Văn Q đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt quy định tại điểm g, o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Hành vi nêu trên của Nguyễn Văn H đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt quy định tại điểm i, q khoản 2 Điều 251 và điểm g, o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Nội dung điều 249 quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

g) Methamphetamine,… có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam. o) Tái phạm nguy hiểm”.

Nội dung điều 251 quy định:

1. Người nào mua bán trái phép chất ma tuý, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

i) Methamphetamine,… có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam. q) Tái phạm nguy hiểm”.

[4] Về tính chất, mức độ, hành vi: Xét tính chất mức độ của vụ án là rất nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc dược của Nhà nước gây mất trật tự trị an xã hội.Các bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy đối với sức khỏe, kinh tế xã hội, nhưng do bản thân nghiện ma túy nên đã dẫn đến phạm tội;

Bị cáo H nhận thức được tác hại của ma túy đối với sức khỏe kinh tế nhưng do muốn kiếm lời bất chính nên bị cáo vẫn đi bán ma túy cho người khác để kiếm lời, đã dẫn bị cáo tới con đường phạm tội.Vì vậy cần phải xét xử các bị cáo với mức án phù hợp, buộc các bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục cải tạo các bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, đồng thời góp phần đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung [5] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo Hội đồng xét xử nhận thấy: Bị cáo Nguyễn Văn H năm 2003 đã bị Toà án nhân dân tỉnh Bắc Kạn xử phạt 54 tháng tù về tội “Tàng trữ, lưu hành tiền giả”, năm 2010 bị TAND tỉnh Lạng Sơn xử phạt 15 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/4/2020, chưa được xoá án tích, nay lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng. Do vậy ngoài tình tiết định khung hình phạt bán trái phép 18,429 gam Methamphetamine quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 thì bị cáo còn phải chịu tình tiết định khung là “Tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm q khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Tương tự đối với hành vi tàng trữ 18.666 gam Methamphetamine để sử dụng cho bản thân Nguyễn Văn H bị xử lý theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 BLHS thì bị cáo còn phải chịu tình tiết định khung là “Tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đối với Trần Văn Q có nhân thân rất xấu, năm 2011 bị Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên xử phạt 10 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” Chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/12/2018, chưa thi hành xong hình phạt bổ sung và án phí,chưa được xoá án tích, nay lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, bị cáo tàng trữ 18.429 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng cho bản thân bị cáo bị xử lý theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự thì bị cáo còn phải chịu tình tiết định khung là “Tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình do đó các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự, các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ Luật hình sự.

[7] Về hình phạt: Căn cứ vào tính chất, mức độ tội phạm do các bị cáo thực hiện, sau khi xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân đối với các bị cáo. Hội đồng xét xử thấy rằng các bị cáo Nguyễn Văn H và Trần Văn Q trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy, cần xem xét giảm một phần hình phạt cho các bị cáo để các bị cáo yên tâm cải tạo tốt sớm trở về với gia đình và xã hội, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật. Mức hình phạt mà vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị trong phần luận tội là phù hợp.

[8].Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Nguyễn Văn H thực hiện hành vi phạm tội nhằm mục đích thu lời bất chính do đó cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự; Bị cáo Trần Văn Q tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng cho bản thân, lời khai tại phiên tòa bị cáo xác định là người nghiện ma túy không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo Q.

[9] Về việc xử lý hành vi và các đối tượng có liên quan: Về nguồn gốc số ma túy Nguyễn Văn H khai mua của người nam giới không rõ lai lịch địa chỉ ở khu vực Trung tâm thương mại Vincom Plaza thuộc phường Q Trung, thành phố Thái Nguyên, nên Cơ quan điều tra không có căn cứ làm rõ xử lý;Đối với anh Vũ Công P (Sinh năm 1967, trú tại: Tổ 12, phường Q Trung, thành phố Thái Nguyên), ngày 13/3/2022 anh P không biết Trần Văn Q thuê chở đi mua ma túy nên Cơ quan điều tra không xem xét xử lý.

[10].Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; §iều 47 Bộ luật hình sự năm: Tịch thu, tiêu hủy: 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu: H1; 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu: H4; 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu: H3; 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu: Q1; 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu: Q3; 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu: Q2;

01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu:; 02 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu: Q4, H5; 20 vỏ túi nilon kích thước 3x5cm.

Đối với: 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu: Q9 (bên trong có chứa 01 điện thoại di động số IMEI:351726112555045,số IMEI: 351726112555052) mặt sau có các dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT Công an TP Thái Nguyên và chữ ký của các thành phần tham gia tạm giữ của bị cáo Q, bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu nộp ngân sách Nhà Nước.

Đối với số tiền 6.800.000đồng (Theo ủy nhiệm chi số 40 ngày 27/7/2022) tạm giữ của bị cáo H, tại phiên tòa bị cáo xác định số tiền 6.800.000đồng là tiền do bị cáo bán ma túy cho bị cáo Q mà có nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

[11]. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật [12]. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về căn cứ áp dụng pháp luật:

- Căn cứ vào: Điểm g , o Khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự; Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự (Đối với bị cáo Trần Văn Q).

- Căn cứ vào: Điểm g , o Khoản 2 Điều 249; Điểm i, q khoản 2, khoản 5 Điều 251 điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 và Điều 55 của Bộ luật hình sự; Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự (Đối với bị cáo Nguyễn Văn H).

2. Về tội danh và hình phạt:

2.1 Về tội danh:

- Tuyên bố bị cáo Trần Văn Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2.2 Về hình phạt:

- Xử phạt bị cáo Trần Văn Q 07 (bẩy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo 15/3/2022. Quyết định tạm giam bị cáo 45(bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 07( bẩy) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và 10 (mười) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Tổng hợp hình phạt: Buộc bị cáo H phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 17 (mười bẩy) năm 06 (sáu) tháng tù.Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo 15/3/2022. Quyết định tạm giam bị cáo 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

3/ Về hình phạt bổ sung: Phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Văn H 10.000.000đ (Mười triệu đồng) nộp ngân sách Nhà nước; Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Trần Văn Q.

4/ Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy: 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu: H1 (bên trong có chứa 0,918gam mẫu vật còn lại sau giám định vỏ bao gói mẫu H1) mặt sau có các dấu tròn đỏ của Phòng KTHS Công an tỉnh Thái Nguyên và chữ ký của Nguyễn Thành Trung; 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu: H4 (bên trong có chứa 0,199gam mẫu vật còn lại sau giám định vỏ bao gói mẫu H4) mặt sau có các dấu tròn đỏ của Phòng KTHS Công an tỉnh Thái Nguyên và chữ ký của Nguyễn Thành Trung; 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu: H3 (bên trong có chứa 0185gam mẫu vật còn lại sau giám định vỏ bao gói mẫu H3) mặt sau có các dấu tròn đỏ của Phòng KTHS Công an tỉnh Thái Nguyên và chữ ký của Nguyễn Thành Trung; 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu: Q1 (bên trong có chứa 0,874gam mẫu vật còn lại sau giám định vỏ bao gói mẫu Q1) mặt sau có các dấu tròn đỏ của Phòng KTHS Công an tỉnh Thái Nguyên và chữ ký của Nguyễn Thành Trung; 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu: Q3 (bên trong có chứa 0,099gam mẫu vật còn lại sau giám định vỏ bao gói mẫu Q3) mặt sau có các dấu tròn đỏ của Phòng KTHS Công an tỉnh Thái Nguyên và chữ ký của Nguyễn Thành Trung; 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu: Q2 (bên trong có chứa 17,279 gam mẫu vật ban đầu) mặt sau có các dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT Công an TP Thái Nguyên và chữ ký của các thành phần tham gia; 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu: H2 (bên trong có chứa 16,077 gam mẫu vật ban đầu) mặt sau có các dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT Công an TP Thái Nguyên và chữ ký của các thành phần tham gia; 02 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu: Q4, H5 (bên trong có chứa vỏ bao mẫu vật niêm phong ban đầu) mặt sau có các dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT Công an TP Thái Nguyên và chữ ký của các thành phần tham gia; 20 vỏ túi nilon kích thước 3x5cm.

Tịch thu nộp ngân sách Nhà Nước: Số tiền 6.800.000đồng (Theo ủy nhiệm chi số 40 ngày 27/7/2022); 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu: Q9 (bên trong có chứa 01 điện thoại di động số IMEI:351726112555045,số IMEI: 351726112555052) mặt sau có các dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT Công an TP Thái Nguyên và chữ ký của các thành phần tham gia.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 289 ngày 12/8/2022 giữa Công an thành phố Thái Nguyên với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên; Số tiền 6.800.000đồng theo ủy nhiệm chi số 40 ngày 27/7/2022).

5/ Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc các bị cáo Nguyễn Văn H,Trần Văn Q, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách Nhà Nước.

6/ Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo Q, bị cáo H có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

51
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 374/2022/HS-ST

Số hiệu:374/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về