TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG TÈ, TỈNH LAI CHÂU
BẢN ÁN 37/2024/HS-ST NGÀY 05/01/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 05 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mường Tè tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 36/2023/TLST-HS ngày 10 tháng 11 năm 2023. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2023/QĐXXST- HS ngày 25/12/2023 đối với bị cáo: Họ và tên: Lò Thị L - Sinh năm 1995.
Nơi cư trú: Bản N, xã B, huyện M, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: 02/12; Dân tộc: Mảng; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lò Văn C - sinh năm 1972 và bà Lò Thị C1- sinh năm 1975; Bị cáo sống chung như vợ chồng với Vàng Gió L2 - sinh năm 1992 và có 03 con. Con lớn nhất sinh năm 2015, con nhỏ nhất sinh năm 2021; Gia đình bị cáo có 04 chị em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 16/6/2023 đến ngày 19/6/2023 bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơ cư trú cho đến nay (Có mặt).
- Người làm chứng: Anh Lò A L1 - sinh năm 1997 Nơi cư trú: Bản N, xã B, huyện M, tỉnh Lai Châu. (Vắng mặt)
- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Công H - Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lai Châu (Có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 10 giờ, ngày 16/6/2023, Lò Thị L, sinh năm: 1995, trú tại Bản N, xã B, huyện M xin đi nhờ xe máy của một người đàn ông lạ mặt đến thị trấn Mường Tè, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu để tìm mua Heroine về sử dụng. Khi đến vòng xuyến thuộc khu phố 12, thị trấn Mường Tè thì L xuống xe, còn người đàn ông lạ mặt tiếp tục điều khiển xe máy đi về hướng trung tâm thị trấn Mường Tè, huyện Mường Tè. Tại vòng xuyến thuộc Khu phố 12, thị trấn Mường Tè, L gặp và mua được của một người phụ nữ lạ mặt 04 gói Heroine, bên ngoài đều được gói bằng mảnh nilon màu xanh với giá 1.500.000 đồng để sử dụng. Sau khi mua được Heroine, L cầm trên tay phải rồi đi bộ quay về nhà. Khi L đi bộ đến ngã ba xã Bum Nưa, huyện Mường Tè, L gặp Lò A L1, sinh năm 1997, cùng trú tại bản với L. L xin đi nhờ và được L1 đồng ý. Đến hồi 14 giờ 30 phút cùng ngày, khi L và L1 đi đến khu vực giáp danh giữa bản Nậm Củm, xã Bum Nưa và bản Phí Chi A, xã Pa Vệ Sủ thì bị tổ công tác Đồn Biên Phòng Pa Vệ Sử yêu cầu dừng lại để kiểm tra, do lo sợ nên L đã thả toàn bộ số Heroine xuống đất ngay tại chỗ L dừng. Hành vi thả Heroine của L đã bị tổ Công tác Đồn Biên phòng Pa Vệ Sử phát hiện, tổ công tác đã yêu cầu L nhặt lên để kiểm tra. Quá trình kiểm tra, L đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội nói trên. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong toàn bộ vật chứng có liên quan theo quy định của pháp luật.
Tại bản kết luận giám định tư pháp số 97/KLGĐ ngày 17/6/2023 của người giám định tư pháp theo vụ việc Công an huyện Mường Tè, đã kết luận: Tổng khối lượng 04 gói vật chứng thu giữ của Lò Thị L có khối lượng là 8,38 gam.
Tại bản kết luận giám định số 776/KL-KTHS ngày 18/6/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận đối với vật chứng thu giữ của Lò Thị L: 04 Mẫu chất bột màu trắng (ký hiệu từ Mẫu 01 đến Mẫu 04) gửi giám định là ma túy, loại: Heroine Tại bản cáo trạng số 150/CT-VKSMT ngày 10/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Tè tỉnh Lai Châu đã truy tố Lò Thị L về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố phân tích các tài liệu chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điểm g khoản 2, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự. Khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số:326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội tuyên bố bị cáo Lò Thị L phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" xử phạt bị cáo Lò Thị L mức án từ 05 năm 10 tháng đến 06 năm 02 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự tịch thu tiêu hủy 7,07 gam Heroine còn lại sau giám định; 04 mảnh nilon màu xanh.
Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo trình bày luận cứ bào chữa nhất trí với nội dung, quyết định truy tố. Không có ý kiến tranh luận về tội danh, điều luật, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cũng như xử lý vật chứng, các biện pháp tư pháp mà Kiểm sát viên đã đề nghị. Tuy nhiên người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hoàn cảnh gia đình, nhận thức pháp luật của bị cáo để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Miễn án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Tại phiên toà bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng, đồng ý với quan điểm của người bào chữa và không có ý kiến tranh luận đối với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Tè.
Tại lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Mường Tè, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Tè, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2]. Về tính chất, mức độ, hành vi của bị cáo:
Xét lời khai nhận của bị cáo Lò Thị L tại phiên tòa ngày hôm nay phù hợp lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu đã truy tố.
Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào hồi 14 giờ 30 phút, ngày 16/6/2023, tại khu vực giáp ranh giữa bản Nậm Cùm, xã Bum Nưa và bản Phí Chi A, xã Pa Vệ Sủ, huyện Mường Tè Lò Thị L đang có hành vi tàng trữ trái phép 8,38 gam Heroine để sử dụng thì bị tổ công tác Đồn Biên phòng Pa Vệ Sử - BCH Bộ đội Biên phòng tỉnh Lai Châu phát hiện, bắt quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định của pháp luật.
Bị cáo Lò Thị L có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Hành vi nêu trên của bị cáo là rất nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách quản lý đặc biệt về các chất ma tuý của Nhà nước, làm ảnh hưởng xấu tới trật tự trị an, an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo biết rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi tàng trữ trái phép 8,38 gam Heroine để sử dụng đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Vì vậy quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát, người bào chữa tại phiên tòa về tội danh, mức hình phạt và các vấn đề khác liên quan là hoàn toàn có cơ sở, phù hợp với tính chất, mức độ cũng như hành vi phạm tội của bị cáo nên cần chấp nhận.
[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Nhân thân: Bị cáo Lò Thị L chưa có tiền án, tiền sự, bị cáo là người nghiện chất ma túy.
Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS.
Tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo là người dân tộc thiểu số, gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn nên Hội đồng xét xử cần áp dụng cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 BLHS.
Do bị cáo là người nghiện chất ma túy, hành vi của bị cáo là rất nghiêm trọng nên Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ sức răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.
[4]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 triệu đồng, ... hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa, xét thấy bị cáo là người dân tộc thiểu số, công việc và thu nhập không ổn định, gia đình bị cáo là hộ nghèo. Vì vậy, Hội đồng xét xử xem xét không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5]. Về vật chứng của vụ án: 7,07 gam Heroine còn lại sau giám định là chất ma tuý Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu để tiêu huỷ, 04 mảnh nilon màu xanh là vật bị cáo dùng vào việc phạm tội không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
[6]. Về những vấn đề khác:
Đối với người phụ nữ lạ mặt mà theo lời khai đó là người đã bán Heroine cho bị cáo đem về sử dụng và người đàn ông đã cho L đi nhờ xe xuống thị trấn Mường Tè: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra không xác định được những người đó là ai nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét xử lý.
Đối với cháu Lò A L1 là người đã cho bị cáo đi nhờ xe về: Khi L1 cho bị cáo đi nhờ xe L1 không biết việc bị cáo đang tàng trữ trái phép chất ma tuý nên L1 không đồng phạm với hành vi của bị cáo.
[7]. Về án phí: Xét thấy bị cáo là người dân tộc thiểu số, gia đình là hộ nghèo. Nên cần miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng điểm g khoản 2, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Điều 46; điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự. Điểm a, c khoản 2 Điều 106; Khoản 2 Điều 135; Khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
1. Tuyên bố bị cáo Lò Thị L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Xử phạt bị cáo Lò Thị L 05 năm 10 tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án. Bị cáo được khấu trừ số ngày tạm giữ từ ngày 16/6/2023 đến ngày 19/6/2023. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.
3. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 7,07 gam Heroine còn lại sau giám định; 04 mảnh nilon màu xanh.
(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Mường Tè với Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Mường Tè được lập vào hồi 15 giờ 30 phút ngày 15 tháng 11 năm 2023)
4. Án phí: Miễn án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án, lên Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 37/2024/HS-ST
Số hiệu: | 37/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mường Tè - Lai Châu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về