Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 370/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 370/2020/HS-ST NGÀY 24/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 24 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 357/2020/HSST ngày 25 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 389/2020/QĐXXST- HS ngày 11 tháng 12 năm 2020, đối với bị cáo:

Trần Mạnh V, giới tính Nam; sinh năm 1986; tại: tỉnh Gia Lai; Hộ khẩu thường trú: thôn M, thị trấn C, huyện C, tỉnh Gia Lai; Tạm trú: 122 đường B, khu phố X, phường B, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hoá (học vấn): 7/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Ngọc T và bà Võ Thị M; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 13/6/2006 bị Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai xử phạt 42 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, chấp hành xong hình phạt ngày 30/10/2008; nộp án phí ngày 21/01/2009, kết thúc việc thi hành án dân sự ngày 16/4/2007. Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày: 27/7/2020. (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

[1] Trần Mạnh V sử dụng ma túy từ năm 2019. Vào tháng 4/2020, Trần Mạnh V quen một người thanh niên tên K và biết K bán ma túy. Lúc 22 giờ 10 phút ngày 27/7/2020, Trần Mạnh V điều khiển xe mô tô Biển số 81P1-X đến khu vực chợ đêm phường L, quận Thủ Đức gặp Khôi để mua 01 gói ma túy giá 300.000 đồng về sử dụng. Sau khi mua xong thì Trần Mạnh V điều khiển xe ra về, trên đường đi đến trước nhà số 952/12, Tỉnh lộ X, khu phố X, phường B, quận Thủ Đức thì Trần Mạnh V bị Tổ tuần tra 363 Công an quận Thủ Đức bắt quả tang. Thu giữ của Trần Mạnh V 01 gói nylon bên trong chứa tinh thể không màu để trong gói thuốc lá hiệu Sài Gòn để trong túi quần Jean phía trước bên trái của Trần Mạnh V (BL 01, 47-52).

Kết luận giám định số 1291/KLGĐ-H ngày 05/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Tinh thể không màu được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Trần Mạnh V và hình dấu Công an phường Bình Chiểu, quận Thủ Đức được ký hiệu mẫu m cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1737 g, loại Methamphetamine (BL 13).

Vật chứng vụ án:

+ 01 gói niêm phong ghi số vụ 1291/KLGĐ-H có chữ ký của giám định viên Võ Anh T, bên trong là ma túy còn lại sau khi giám định.

+ 01 xe mô tô biển số 81P1-X + 01 điện thoại di động Nokia có số sim 09X51671, 096X7362 Kết quả xác minh, xe mô tô biển số 81P1-X do bà Nguyễn Thị Th là bạn gái của Trần Mạnh V đứng tên chủ sở hữu. Ngày 27/7/2020, bà Th cho Trần Mạnh V mượn xe trên đi công việc nhưng Trần Mạnh V sử dụng xe trên đi mua ma túy bà Th không biết, Cơ quan Điều tra đã trả lại xe trên cho bà Th.

[2] Bản Cáo trạng số 350/CT-VKSTĐ ngày 23/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức truy tố bị cáo Trần Mạnh V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, thuộc trường hợp phạm tội tàng trữ ma túy là loại Methamphetamine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam; căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ để xử phạt bị cáo từ 18 đến 24 tháng tù; vật chứng xử lý theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo Trần Mạnh V đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như kết luận điều tra và cáo trạng truy tố, bị cáo không có ý kiến tranh luận, bào chữa gì và bị cáo nói lời sau cùng rất hối hận, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Trần Mạnh V phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng và các tài liệu chứng cứ đã thu thập được, có căn cứ xác định bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, với khối lượng ma túy bị cáo bị bắt quả tang theo kết luận giám định là 0,1737 g ma túy ở thể rắn loại Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng.

Như vậy, có đủ cơ sở pháp lý kết luận bị cáo Trần Mạnh V đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, do tính chất đặc biệt của chất ma túy có thể gây tác hại rất lớn về nhiều mặt cho xã hội. Nhà nước ta cũng như cả thế giới đều ra sức đấu tranh phòng chống tệ nạn ma túy, mọi hành vi trái pháp luật liên quan đến ma túy đều bị nghiêm cấm và xử lý nghiêm khắc nếu có vi phạm. Vì động cơ thỏa mãn cơn nghiện, bị cáo đã thực hiện hành vi tàng trữ một lượng ma túy nhất định. Thể hiện bị cáo rất liều lĩnh và xem thường pháp luật của nhà nước. Vì vậy, cần xử lý bị cáo bằng hình phạt tù có thời hạn để giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và nêu gương phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Khi lượng hình cần xem xét cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự, tuy nhiên bị cáo có nhân thân xấu.

[5] Về xử lý vật chứng: 01 gói niêm phong vụ số 1291/KLGĐ-H bên ngoài có chữ ký của Giám định viên Võ Anh T, bên trong là ma túy còn lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy là đúng pháp luật.

Đối với chiếc điện thoại di động hiệu Nokia màu đen sim số 09X51671 và 096X7362 là công cụ phương tiện phạm tội, nên hội đồng xét xử tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

Đối với chiếc xe mô tô biển số 81P1-X do bà Nguyễn Thị Th là bạn gái của Trần Mạnh V đứng tên chủ sở hữu. Ngày 27/7/2020, bà Th cho Trần Mạnh V mượn xe trên đi công việc nhưng Trần Mạnh V sử dụng xe trên đi mua ma túy bà Th không biết, Cơ quan Điều tra đã trả lại xe trên cho bà Th; hiện bà Nguyễn Thị Th không có yêu cầu gì khác, nên hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Mạnh V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Trần Mạnh V 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/7/2020.

3. Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong vụ 1291 bên ngoài có chữ ký của Giám định viên Võ Anh T, bên trong là ma túy còn lại sau giám định.

(Theo Phiếu nhập kho số NKT2021/043 ngày 20/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh).

+ Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, sinh số 09X51671 và 096X7362.

(Theo Phiếu nhập kho số NKT2021/043 ngày 20/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh).

4. Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bị cáo Trần Mạnh V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

5. Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Bị cáo Trần Mạnh V có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tòa tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

98
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 370/2020/HS-ST

Số hiệu:370/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân TP. Thủ Đức - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về