Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 36/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ YÊN, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 36/2022/HS-ST NGÀY 07/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 6 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 38/2022/TLST-HS ngày 19 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2022/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo: Ngô Văn H, sinh ngày 01 tháng 3 năm 1994 tại Phù Yên-Sơn La; nơi cư trú: bản X, xã Mường Cơi, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Ngô Văn V; con bà: Trương Thị Th; có vợ là Đinh Thị Ph, bị cáo chưa có con; tiền án: không; tiền sự: ngày 19/6/2020, bị ủy ban nhân dân xã Mường Cơi, huyện Phù Yên áp dụng biện pháp xử lý hành chính “giáo dục tại cấp xã” về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; nhân thân: nghiện ma túy; bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 21 tháng 02 năm 2022 đến nay; “có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 21 tháng 02 năm 2022, Ngô Văn H cùng với một người thanh niên khác tên “Cường” điều khiển xe mô tô sang huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái để hỏi mua ma túy về cùng nhau sử dụng. Khi đi đến khu vực chân đèo Lũng Lô, Cường đưa cho H 500.000 đồng, H cầm tiền rồi một mình điều khiển xe mô tô đi đến khu vực Nhà văn hóa xã Thượng Bằng La, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái thì gặp người đàn ông tên “Minh”, H nhờ anh Minh đi mua giúp 01 gói ma túy giá 500.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, bị cáo H cầm gói ma túy quay lại chỗ Cường đang đợi, Cường chia gói ma túy H vừa mua được thành 02 gói nhỏ rồi đưa cho H cất giữ. Sau đó, Cường điều khiển xe mô tô phía sau chở H cùng đi về huyện Phù Yên. Khi cả hai đi đến khu vực bản Nghĩa Hưng, xã Mường Cơi, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La thì bị tổ công tác Công an huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La dừng xe kiểm tra hành chính. Trong lúc kiểm tra hành chính, Cường điểu khiển xe mô tô bỏ chạy, còn Ngô Văn H bị Công an phát hiện bắt quả tang hành vi cất giấu ma túy.

Tại biên bản mở niêm phong, cân tịnh và lấy mẫu gửi giám định xác định (Bút lục số 13): Vật chứng thu giữ của H gồm 02 gói giấy màu đỏ, bên trong đều chứa chất bột mầu trắng. Gói thứ nhất có khối lượng 0,054 gam. Cơ quan điều tra đã lấy 0,054 gam (ký hiệu H1) gửi giám định. Gói thứ hai có khối lượng 0,351 gam. Cơ quan điều tra đã lấy 0,351 gam (ký hiệu H2) gửi giám định. Tại bản kết luận giám định số 399/KL-PC09 ngày 22 tháng 02 năm 2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La kết luận (Bút lục số 23-24): Mẫu gửi giám định ký hiệu H1, H2 đều là ma túy; loại chất Heroine; khối lượng mẫu gửi là H1 = 0,054gam; H2 = 0, 315 gam. Tổng khối lượng chất ma túy thu giữ là 0,369 gam, loại Heroine.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận của Cơ quan điều tra và Phòng kỹ thuật hình sự nêu trên.

Bản Cáo trạng số: 29/CT-VKS-PY ngày 18 tháng 5 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La đã truy tố Ngô Văn H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Ngô Văn H đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Kết thúc việc xét hỏi, Đại diện Viện kiểm sát trình bày luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố, hành vi của bị cáo Ngô Văn H đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Xử phạt bị cáo Ngô Văn H từ 24 đến 30 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Tịch thu, tiêu hủy 0,23 gam Heroine vật chứng còn lại sau giám định; 02 mảnh giấy màu đỏ gói ma túy; 01 phong bì niêm phong vật chứng khi bắt người phạm tội quả tang và 01 phong bì niêm phong mẫu vật chứng gửi giám định (đựng trong phong bì đã niêm phong).

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo H nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên.

Kết thúc tranh luận, bị cáo H trình bày lời nói sau cùng, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Phù Yên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo H khai nhận hành vi cất giữ ma túy nhằm mục đích để sử dụng. Lời khai nhận của bị cáo H là phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như: Tại biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong vật chứng (bút lục 01-06), các biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung của H tại cơ quan điều tra (bút lục 102-113, 118-133) cũng như tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án. Từ việc phân tích đánh giá các chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Ngô Văn H đã có hành vi cất giấu 02 gói Heroine nhằm để sử dụng. Bị cáo H khai nguồn gốc số tiền mua ma túy là của “Cường” nhưng H là người trực tiếp thực hiện việc trao đổi, mua bán ma túy với “Minh”, đồng thời cũng là người trực tiếp cất giấu ma túy. Cơ quan điều tra không có đủ căn cứ làm rõ người thanh niên tên “Cường” đi cùng với H.

Do đó, bị cáo H phải chịu trách nhiệm đối với toàn bộ khối lượng ma túy đã thu giữ. Căn cứ kết luận giám định thì khối lượng Heroine bị cáo H phải chịu trách nhiệm là 0,369gam.

Theo tinh thần tiểu mục 3.1, mục 3, phần II của Thông tư liên tịch số: 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp thì “Tàng trữ trái phép chất ma túy là cất giữ, cất giấu bất hợp pháp chất ma túy ở bất cứ nơi nào (như trong nhà, ngoài vườn, chôn dưới đất, để trong vali, cho vào thùng xăng xe, cất giấu trong quần áo, tư trang mặc trên người hoặc theo người…) mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy. Thời gian tàng trữ dài hay ngắn không ảnh hưởng đến việc xác định tội này”. Như vậy, hành vi cất giấu 02 gói Heroine nhằm mục đích để sử dụng của Ngô Văn H đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự thì “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”.

Kết quả cân tịnh và giám định vật chứng xác định: Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,369gam, loại Heroine. Như vậy, hành vi cất giữ trái phép Heroine nhằm mục đích để sử dụng của Ngô Văn H đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; nhân thân người phạm tội và về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[3.1] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hại lớn cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo nhận thức được việc Tàng trữ trái phép ma túy bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vì mục đích thỏa mãn cơn nghiện ma túy, bị cáo đã bất chấp quy định của pháp luật, cố ý phạm tội.

[3.2] Về nhân thân bị cáo: Bị cáo H có nhân thân xấu, có tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, bản thân là người nghiện ma túy.

[3.3] Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo H thành khẩn khai báo, cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Từ việc đánh giá những căn cứ quyết định hình phạt trên, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo với mức hình phạt tương xứng với tính chất của hành vi phạm tội.

Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng…”. Do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định, điều kiện kinh tế còn khó khăn (Bút lục số 185). Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, tịch thu tài sản.

[4] Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp:

Đối với 0,23 gam Heroine vật chứng còn lại sau giám định; 02 mảnh giấy màu đỏ gói ma túy; 01 phong bì niêm phong vật chứng khi bắt người phạm tội quả tang và 01 phong bì niêm phong mẫu vật chứng gửi giám định (đựng trong phong bì đã niêm phong) là vật cấm lưu hành, vật không có giá trị. Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với người thanh niên tên “Cường” cùng đi mua ma túy với bị cáo H cũng như người đàn ông tên “Minh”, đã bán ma túy cho bị cáo H. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, tại địa chỉ bị cáo cung cấp không có người có đặc điểm như bị cáo H cung cấp (bút lục 138- 142). Do đó, Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý đối với Cường và Minh.

Do đến ngày xét xử, thời hạn tạm giam đối với bị cáo Ngô Văn H đã hết nên Hội đồng xét xử cần tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo việc thi hành án.

[5] Về án phí, bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự;

1. Tuyên bố: Bị cáo Ngô Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt Ngô Văn H 24 (hai mươi tư) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21 tháng 02 năm 2022 (ngày bị cáo bị bắt, tạm giữ). Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp:

Căn cứ các điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu, tiêu hủy 0,23 gam Heroine vật chứng còn lại sau giám định; 02 mảnh giấy màu đỏ gói ma túy; 01 phong bì niêm phong vật chứng khi bắt người phạm tội quả tang và 01 phong bì niêm phong mẫu vật chứng gửi giám định (đựng trong phong bì đã niêm phong).

3. Về án phí:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Ngô Văn H phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 07/6/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

93
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 36/2022/HS-ST

Số hiệu:36/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phù Yên - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về