Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 35/2020/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 35/2020/HS-ST NGÀY 30/03/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 03 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 33/2020/HS-ST ngày 10 tháng 03 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2020/QĐXX-ST ngày 16 tháng 03 năm 2020, đối với bị cáo:

Họ và tên: LÒ VĂN TH, sinh ngày 10/08/2000, tại SL; Nơi cư trú: Bản T xã TL, huyện Th, tỉnh S; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 08/12; Dân tộc: Thái; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Lò Văn Ph (Sinh năm 1963); con bà Lò Thị T (Sinh năm 1969); Danh bản, chỉ bản số 033 lập ngày 25 tháng 12 năm 2019 của Công an huyện Đ bị cáo không có tiền án, tiền sự; Tạm giữ: Từ ngày 25 tháng 12 năm 2019 đến ngày 03 tháng 01 năm 2020; Tạm giam:

Từ ngày 03 tháng 01 năm 2020. Có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Chu Thị Th - Trợ giúp viên pháp lý chi nhánh số 5 thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 23 giờ 20 phút ngày 24 tháng 12 năm 2019, Tổ công tác Đại đội 2, Tiểu đoàn 4, Trung đoàn Cảnh sát cơ động - Công an thành phố Hà Nội làm nhiệm vụ tại tuyến Quốc lộ 3 thuộc Tổ 3, thị trấn Đ, huyện Đ, thành phố Hà Nội, phát hiện Lò Văn Th và Quàng Văn Th (sn1998; HKTT: Bản L, xã B, huyện Th, tỉnh S) điều khiển xe máy Honda Wave, màu đỏ, biển kiểm soát: 33N4-0866 có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành dừng xe kiểm tra và khám người theo thủ tục hành chính. Kết quả khám người Lò Văn Th (là đối tượng ngồi sau) phát hiện tạm giữ trong túi áo khoác phía trước bên phải: 02 gói giấy bạc đều có kích thước khoảng (1 x 1,5)cm bên trong đều chứa chất bột màu trắng, Th khai nhận là Heroine; 02 túi nilon màu trắng đều có kích thước (1 x 1,5)cm bên trong mỗi túi đều chứa 01 viên nén màu hồng, Th khai nhận là ma túy tổng hợp.

Tổ công tác đã lập biên bản tạm giữ, niêm phong vật chứng đưa các đối tượng Lò Văn Th và Quàng Văn Th về trụ sở Công an để tiếp tục điều tra làm rõ.

Ngoài ra còn tạm giữ:

+ Của Lò Văn Th: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, màu xám, số thuê bao: 0394.240.656 (trong túi quần bên trái phía trước).

+ Của Quàng Văn Th: 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu đỏ, biển kiểm soát: 33N4-0866.

Tại bản kết luận giám định số 8584/KLGĐ-PC09 ngày 31 tháng 12 năm 2019 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, kết luận:

- 02 viên nén màu hồng có tổng khối lượng 0,205 gam đều là ma túy loại Methamphetamine.

- Chất bột màu trắng bên trong 02 gói giấy bạc có tổng khối lượng 0,199 gam là ma túy loại Heroine.

Tại Cơ quan điều tra, Lò Văn Th khai nhận: Khoảng 19h00’ ngày 24 tháng 12 năm 2019, Th và Th1 rủ nhau ra quán Internet thuộc phường Th, quận H, Hà Nội để chơi điện tử. Đang chơi thì Th nhận được tin nhắn của Lò Văn Th (sn2000; HKTT: Bản L, xã B, huyện Th, tỉnh S – Là anh họ Th) rủ Th đến khu vực khu công nghiệp B, huyện Đ, thành phố Hà Nội để uống rượu, Th đồng ý. Đến khoảng 21h00’ cùng ngày, Th rủ Th1 đi chơi cùng, Th1 đồng ý. Sau đó, Th1 dùng xe máy của Th1 để chở Th đi. Do không biết đường nên Th mượn điện thoại của Th1 và sử dụng ứng dụng “google map” để tìm đường. Khi đi đến khu vực huyện Gi, thành phố Hà Nội (Th không biết địa chỉ cụ thể) thì Th thấy 01 người đàn ông đứng ở ven đường giống người bán ma túy nên Th đã nảy sinh ý định mua ma túy để sử dụng. Khi đi qua người đàn ông đứng ven đường khoảng 500 mét thì Th bảo Th1 dừng xe đợi, Th một mình đi bộ quay lại gặp và mua của người đàn ông này 02 viên ma túy “ngựa” và 02 gói Heroine với tổng số tiền là 400.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, Th đi đến vị trí Th1 đợi và tiếp tục đi đến khu vực khu công nghiệp B. Khi đi đến khu vực Quốc lộ 3 thuộc Tổ 3, thị trấn Đ, huyện Đ, thành phố Hà Nội thì Th và Th1 bị lực lượng Cảnh sát cơ động dừng xe kiểm tra phát hiện. Việc Th tàng trữ trái phép chất ma túy, Th1 không biết và không liên quan. Mục đích Th tàng trữ ma túy là để sử dụng cho bản thân, ngoài ra không có mục đích nào khác.

Tại Cơ quan điều tra, Quàng Văn Th khai nhận phù hợp với lời khai của Lò Văn Th, với tài liệu điều tra thu thập được. Việc Th mua và cất giấu ma túy thì Th1 không biết, chỉ đến khi lực lượng Cảnh sát cơ động kiểm tra Th1 mới biết nên cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

Đối với đối tượng bán ma túy cho Th, do Th không rõ nhân thân nên Cơ quan điều tra không có điều kiện xác minh làm rõ để xử lý.

Đối với 01 chiếc điện thoại thu giữ của Th ngày 24 tháng 12 năm 2019, xác định là của Quàng Văn Th cho Th mượn để vào ứng dụng Google Map trên điện thoại để tìm đường sang huyện Đông Anh, không liên quan đến vụ án. Ngày 21 tháng 02 năm 2020, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả cho Quàng Văn Th chiếc điện thoại trên.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu đỏ, biển kiểm soát: 33N4- 0866 thu giữ của Quàng Văn Th. Quá trình điều tra xác định chiếc xe máy trên là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Quốc H (sn 1991; HKTT: Số 18, Ngõ 132/32 phường H, quận H, thành phố Hà Nội). Ngày 21 tháng 02 năm 2020, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả cho anh Nguyễn Quốc H chiếc xe máy trên.

Đối với 01 phong bì niêm phong bên trong có chứa 0,148 gam Methamphetamine và 0,184 gam Heroin (sau giám định, có chữ ký của Lò Văn Th và Giám định viên) là vật chứng của vụ án, chuyển Tòa án nhân dân huyện Đ giải quyết theo thẩm quyền.

Tại phiên toà, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên và xác định: Khoảng 23h20’ngày 24 tháng 12 năm 2019, khi bị cáo cùng với anh Quàng Văn Th (sn1998; HKTT: Bản L, xã B, huyện Th, tỉnh S) đang đi trên trục đường Quốc lộ 3, thuộc Tổ 3, thị trấn Đ, huyện Đ, thành phố Hà Nội thì bị lực lượng Cảnh sát cơ động kiểm tra, phát hiện và thu giữ trong túi áo khoác phía trước bên phải của bị cáo 02 viên nén màu hồng để trong 02 túi ni lon có tổng khối lượng là 0,205 gam Methamphetamine và 02 gói giấy bạc có chứa 0,199 gam Heroine. Bị cáo mua ma tuý để sử dụng cá nhân, không sử dụng vào mục đích nào khác và không liên quan đến anh Th1 là người đi cùng bị cáo.

Tại Bản cáo trạng số 31/CT-VKS-ĐA ngày 28 tháng 02 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đ, thành phố Hà Nội đã truy tố bị cáo Lò Văn Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Khoảng 23h20’ ngày 24 tháng 12 năm 2019, Tổ công tác Đại đội 2, Tiểu đoàn 4, Trung đoàn Cảnh sát cơ động - Công an thành phố Hà Nội làm nhiệm vụ trên trục đường Quốc lộ 3 thuộc Tổ 3, thị trấn Đ, huyện Đ, thành phố Hà Nội, phát hiện và thu giữ của bị cáo 02 gói giấy bạc bên trong chứa tổng cộng 0,199 gam Heroine và 02 túi nilon màu trắng bên trong chứa 02 viên nén màu hồng tổng cộng 0,205 gam Methamphetamine. Hành vi của bị cáo đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Về hình phạt chính: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt: Bị cáo Lò Văn Th từ 15 đến 18 tháng tù.

+ Về hình phạt bổ sung: Không phạt tiền vì bị cáo là con nghiện ma túy, không có việc làm và thu nhập ổn định, kinh tế khó khăn.

+ Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,148 gam Methamphetamine và 0,184 gam Heroin (sau giám định) là vật chứng vụ án thu giữ của bị cáo.

- Người bào chữa cho bị cáo Lò Văn Th sau khi phân tích nguyên nhân, điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội, nhân thân và hoàn cảnh gia đình của bị cáo đã xác định việc truy tố bị cáo của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, m khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo 06 tháng tù cho hưởng án treo, để bị cáo có cơ hội sửa chữa, khắc phục sai lầm trở thành người có ích cho gia đình, xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì chẳng những đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách quản lý độc quyền Nhà nước về chât ma tuy , mà còn là nguyên nhân gây ra các loại tội phạm và tệ nạn xã hội nghiêm trọng khác như: Trộm cắp , Cướp tài sản , vv... Làm hủy hoại sức khỏe , nhân cách con người, đặc biệt là căn bệnh truyền nhiễm thế kỷ HIV /AIDS’. Bị cao nhân thưc đươc hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng do ý thức coi thương phap luât , ham chơi đua đòi nên cô tinh pham tôi . Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo là người dân tộc thiểu số, có bố đẻ là người có công với cách mạng (Tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc; Làm nhiệm vụ quốc tế giúp nước bạn Lào và Campuchia) là cơ sở để cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, cần xử phạt bị cáo với mức án nghiêm khắc và cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo nói riêng và góp phần vào đấu tranh, phòng ngừa chung.

[3]. Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng…”. Xét bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có việc làm và thu nhập ổn định, kinh tế khó khăn nên không phạt tiền bị cáo.

[4]. Về vật chứng vụ án: Đối với 0,148 gam Methamphetamine và 0,184 gam Heroin (sau giám định) được xác định là vật chứng vụ án bị Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

[5]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

[6]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Về hình phạt chính: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo: LÒ VĂN TH 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25 tháng 12 năm 2019.

- Về hình phạt bổ sung: Không phạt tiền bị cáo.

- Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,148 gam Methamphetamine và 0,184 gam Heroin (sau giám định, có bên trong 01 phong bì niêm phong có chữ ký niêm phong của bị cáo Lò Văn Th và Giám định viên). (Tình trạng vật chứng như trong biên bản giao nhận ngày 04 tháng 03 năm 2020, giữa Công an huyện Đ và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ).

- Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước.

- Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

52
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 35/2020/HS-ST

Số hiệu:35/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoài Đức - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về