Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 34/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 34/2022/HS-ST NGÀY 11/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 13/2022/TLST-HS ngày 24 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 19/2022/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 02 năm 2022, Thông báo dời ngày xét xử số 200 ngày 24/02/2022 đối với bị cáo:

Đặng Ngọc H; sinh năm 1987 tại Đồng Nai. Nơi đăng ký thường trú: ấp 8, xã BS, huyện LT, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đặng Ngọc H và bà Phan Thị C; Gia đình có 04 anh chị, bị cáo là con út, chưa có vợ, con.

Tiền án:

- Ngày 26/8/2004 bị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt 14 tháng tù về tội “Vi phạm qui định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” (Bản án số 504/HSST).

- Ngày 23/11/2005 bị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội “Cướp tài sản” cộng với 14 tháng Bản án số 504/HSST ngày 26/8/2004. Tổng hợp hình phạt 08 năm 02 tháng tù. Chấp hành xong ngày 30/8/2010.

- Ngày 24/8/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Long Thành xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong ngày 30/01/2021.

Tiền sự: không.

Bị cáo tại ngoại (có mặt).

- Người làm chứng: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm: 1980. (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 19 giờ 30 phút ngày 06/9/2021, Công an xã Lộc An đang trên đường tuần tra tại đoạn đường TL769, thuộc ấp Bình Lâm, xã Lộc An, huyện Long Thành thì phát hiện Đặng Ngọc H điều khiển xe mô tô biển số 60C1 - 381.66 có biểu hiện nghi vấn nên dừng xe kiểm tra. Qua kiểm tra, phát hiện phía trong quần lót đang mặc có 02 gói nylon: 01 gói kích thước 4,5cm x 4,5cm, 01 gói kích thước 4,5cm x 8,5 cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng, không rõ hình. H khai nhận số tinh thể trên là ma túy do H mua về để sử dụng. Lực lượng Công an tiến hành thu giữ vật chứng và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Qua điều tra xác định: Đặng Ngọc H bắt đầu sử dụng trái phép chất ma túy từ năm 2014 đến nay. Vào khoảng 18 giờ 00 phút ngày 06/9/2021 do có nhu cầu sử dụng ma túy, H dùng điện thoại di động hiệu Nokia màu đen của mình gọi điện hỏi mua ma túy của một người tên “Tuấn” (không rõ tên tuổi, địa chỉ). Tuấn hẹn H đến cây xăng gần ngã ba Tam An để mua ma túy, H điều khiển xe mô tô biển số 60C1- 381.66 đến điểm hẹn, H mua ma túy với giá 5.000.000 đồng, Tuấn chỉ cho H ma túy được giấu trong bao thuốc lá hiệu JET để dưới gốc cây trứng cá gần đó. H đi đến lấy ma túy giấu vào bên trong quần lót rồi điều khiển xe về đoạn đường 769, thuộc ấp Bình Lâm, xã Lộc An, huyện Long Thành thì bị lực lượng Công an xã Lộc An kiểm tra phát hiện 02 gói ma túy nên đưa H cùng tang vật về trụ sở làm việc.

Tại bản kết luận giám định số 1808/KLGĐ-PC09 ngày 15/9/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 4,2091 gam, loại: Methamphetamine.

Vật chứng thu giữ: 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, 01 điện thoại hiệu Samsung màu đen, 01 điện điện thoại hiệu Samsung màu đen bị vỡ màng hình, 01 xe mô tô hiệu Honda biển số 60C - 381.66 và 01 gói đã được niêm phong chứa ma túy được hoàn lại sau khi giám định số 1808/KLGĐ- PC09 ngày 16/9/2021.

Tại Cáo trạng số 11/CT-VKSLT ngày 14 tháng 01 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành đã truy tố bị cáo Đặng Ngọc H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Đặng Ngọc H từ 05 (năm) năm đến 06 (sáu) năm tù giam.

Về biện pháp tư pháp: Đề nghị căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 gói đã được niêm phong chứa ma túy được hoàn lại sau khi giám định số 1808/PC09-GĐMT, tịch thu sung công 01 xe mô tô biển số 60C1 - 381.66, 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen do bị cáo sử dụng vào việc phạm tội. Riêng 02 điện thoại di động: 01 điện thoại hiệu Samsung màu đen, 01 điện thoại hiệu Samsung màu đen bị vỡ màng hình do không liên quan đến vụ án nên Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại cho bị cáo.

Tại phiên Tòa bị cáo không phát biểu tranh luận. Bị cáo nói lời nói sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo để về chăm sóc bố mẹ già.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Vụ án không thuộc trường hợp tạm đình chỉ hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra, điều tra viên, Viện kiểm sát, kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, các tài liệu, chứng cứ được thu thập đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi cũng như quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép 4,2091 gam, loại: Methamphetamine, nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các lời khai của bị cáo và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã đủ yếu tố kết luận bị cáo H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Bản thân bị cáo có 03 tiền án chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung hình phạt. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý độc quyền các chất ma túy, làm mất an ninh, trật tự tại địa phương, là một trong những nguyên nhân của các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác. Bị cáo là người có 03 tiền án nhưng khi chấp hành xong hình phạt, bị cáo không nhận thức sửa chữa để trở thành người công dân tốt mà lại tiếp tục phạm tội. Do đó, cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, bị cáo có cha ruột, mẹ ruột là người có công cách mạng được Nhà nước tặng huy chương đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về biện pháp tư pháp: Cần tịch thu tiêu hủy 01 gói mẫu vật sau giám định niêm phong số 1808/KLGĐ- PC09 ngày 16/9/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 xe mô tô biển số 60C1 - 381.66, 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen là phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội.

Đối với người đàn ông tên Tuấn bán ma túy cho H không rõ nhân thân lai lịch. Do đó, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành tiếp tục xác minh xử lý sau.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1.Tuyên bố: Bị cáo Đặng Ngọc H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Đặng Ngọc H 05 (năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt để thi hành án.

2. Về biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự và áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 gói mẫu vật sau giám định niêm phong số 1808/KLGĐ- PC09 ngày 16/9/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 xe mô tô biển số 60C1 - 381.66, số khung AY182530, số máy E-2682564, 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen là phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội.

(Vật chứng này hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Long Thành theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 17/01/2022).

3. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

243
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 34/2022/HS-ST

Số hiệu:34/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về