Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 34/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN TRƯỜNG, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 34/2021/HS-ST NGÀY 16/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 16 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 32/2021/TLST-HS, ngày 14 tháng 5 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2021/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

Vũ Văn T, sinh ngày 07 tháng 5 năm 1985; nơi sinh: huyện XT, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Xóm 31, xã XH, huyện XT, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn Đ (đã chết); con bà Phạm Thị S; gia đình có 04 anh chị em, bị cáo là thứ tư; có vợ là Nguyễn Thị M, sinh năm 1986; có 02 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Năm 2017, bị Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xử phạt 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong bản án từ ngày 11/11/2018; bị tạm giữ từ ngày 23/02/2021 đến ngày 26/02/2021 chuyển tạm giam đến nay; “có mặt”.

- Người chứng kiến: Ông Nguyên Ngọc B “vắng mặt”

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 22/02/2021, Vũ Văn T đi bộ một mình từ nhà ở xóm 31, xã XH, huyện XT, tỉnh Nam Định ra bắt xe buýt từ xã XH, huyện Xuân Trường lên khu vực chợ Rồng, phường Bà Triệu, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định tìm mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Đến nơi, qua dò hỏi, T gặp và mua của một người đàn ông lạ mặt không rõ tên, tuổi, địa chỉ 600.000 đồng Heroine. Người đàn ông nhận tiền và đưa cho T 03 gói nhỏ kích thước không đều nhau, bên ngoài gói bằng giấy màu trắng, bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng, T xác định là heroine, cầm cất vào trong túi quần rồi theo cách cũ đi về. Khi về đến nhà, lúc này trong nhà không có ai, T đi vào trong nhà vệ sinh lấy lượng Heroine từ trong 02 gói giấy nhỏ ra cho vào một mảnh giấy bạc rồi dùng bật lửa đốt hít hết. Về giấy gói, mảnh giấy bạc và bật lửa T cho vào trong túi quần sau đó đã rơi mất ở đâu T không biết. Đối với gói Heroine còn lại, T cất trong túi áo mặc trên người để khi nào cần thì sử dụng. Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 23/02/2021, T ra chợ Hành Thiện, thuộc xóm 14, xã XH, huyện Xuân Trường để bán hoa quả. Sau đó, T đi vào khu vực nhà vệ sinh của chợ để tìm cách sử dụng ma túy thì bị lực lượng công an xã XH, huyện Xuân Trường phát hiện có biểu hiện nghi vấn đã yêu cầu kiểm tra. T chấp hành, thành khẩn khai nhận hành vi của bản thân và giao nộp 01 gói giấy nhỏ màu trắng đã cất giấu. Tổ công tác đã mời người chứng kiến tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ và niêm phong 01 gói giấy nhỏ T nộp trong phong bì kín, ký hiệu M.

Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Vũ Văn T, Cơ quan điều tra không thu giữ đồ vật, tài liệu gì.

Tại bản kết luận giám định số 271/GĐKTHS ngày 24/02/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu vật niêm phong ký hiệu M gửi giám định là ma túy. Loại ma túy: Heroine. Tổng khối lượng: 0,137 gam.

Tại cơ quan điều tra, Vũ Văn T đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng cho bản thân như trên.

Cáo trạng số 32/CT-VKS ngày 12/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Trường đã truy tố bị cáo Vũ Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Trường luận tội, đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đã giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh và hình phạt chính: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

- Tuyên bố bị cáo Vũ Văn T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Vũ Văn T từ 24 đến 27 tháng tù;

Về hình phạt bổ sung: Hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo khó khăn đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu, cho tiêu hủy số ma túy đã thu giữ của bị cáo.

Bị cáo không tự bào chữa, tranh luận gì.

Trong lời nói sau cùng bị cáo tỏ thái độ ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Xuân Trường, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Trường, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại giai đoạn điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, kết hợp với kết luận giám định về số ma túy thu giữ cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở xác định: Khoảng 8 giờ 30 phút ngày 23/02/2021, tại xóm 14, xã XH, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định, Vũ Văn T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy 0,137 gam Heroine mục đích sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện bắt quả tang. Vì vậy, hành vi của Vũ Văn T đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Trường đã truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý của nhà nước về các chất gây nghiện, tiếp tay cho tệ nạn mua bán, sử dụng trái phép chất ma tuý, một hiểm hoạ lớn cho toàn xã hội, là nguồn gốc phát sinh nhiều loại tội phạm như: Trộm cắp tài sản, cướp tài sản,… làm tan vỡ hạnh phúc bao gia đình. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội; là người nghiện ma túy nên bị cáo đã thấu hiểu được tác hại của ma túy nhưng vẫn cố tình tàng trữ để sử dụng cho bản thân. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm bị cáo theo quy định của pháp luật hình sự để răn đe và phòng ngừa.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51của Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt chính: Sau khi cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là áp dụng hình phạt tù có thời hạn tương xứng với tính chất mức độ hành vi cũng như theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát mới đủ tác dụng trừng trị, giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy hoàn cảnh kinh tế của bị cáo khó khăn nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[7] Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo T, bị cáo T khai không biết tên, tuổi, địa chỉ ngoài ra không còn nguồn tài liệu, chứng cứ nào khác nên Cơ quan điều tra Công an huyện Xuân Trường không đủ căn cứ để xử lý là phù hợp.

[8] Đối với 02 gói Heroine mà T khai đã sử dụng do T không nhớ rõ được kích thước, khối lượng, ngoài ra không còn nguồn tài liệu, chứng cứ nào khác nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để kết luận.

[9] Về xử lý vật chứng thu giữ: Số ma túy đã thu giữ của bị cáo là vật nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu cho tiêu hủy [10] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự:

- Tuyên bố bị cáo Vũ Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”;

+ Xử phạt bị cáo Vũ Văn T 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 23/02/2021.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Tịch thu, tiêu hủy số ma túy trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 271/GĐKTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định.

(Chi tiết vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 41/CCTHA ngày 01/6/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Xuân Trường và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuân Trường).

3. Án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án buộc bị cáo Vũ Văn T phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hạn thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 34/2021/HS-ST

Số hiệu:34/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Trường - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về