Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 34/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ L

BẢN ÁN 34/2021/HS-ST NGÀY 22/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 22/7/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố L xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 34/2021/HSST ngày 28 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2021/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Chang A Ch; Tên gọi khác: Không; Sinh năm 1958 tại tỉnh L;

Trú tại: Bản Lùng Th, xã Tả L1, huyện T, tỉnh L; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá(học vấn): 04/10; Dân tộc: Mông; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Con ông: Chang A C (đã chết); Họ và tên mẹ: Hảng Thị Di, sinh năm 1920; Có vợ là Giàng Thị P, sinh năm 1957 và có 07 con, con lớn nhất sinh năm 1980, con nhỏ nhất sinh năm 1999; Anh chị em ruột có 05 người, bị cáo là con thứ hai; Tiền sự: Không; Tiền án: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 23/02/2021 đến ngày 01/3/2021 được áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay. (Có mặt ).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Hi 15 giờ 30 phút, ngày 23/02/2021 Tổ công tác của Đội cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế và ma túy - Công an thành phố L đang làm nhiệm vụ tại khu vực Bản Lùng Th, xã San T1, thành phố L, tỉnh L thì phát hiện Chang A Ch có biểu hiện nghi vấn phạm tội, qua kiểm tra Chang A Ch thừa nhận đang chuẩn bị sử dụng ma tuý và tự giác giao nộp 01 gói được gói bên ngoài bằng mảnh giấy màu trắng có in chữ màu xanh – đỏ bên trong có 02 gói (trong đó 01 gói được gói bên ngoài bằng nilon màu hồng bên trong là chất bột màu trắng; 01 gói gói bên ngoài bằng nilon màu đen, bên trong là chất bột màu trắng). Theo Ch khai 02 gói đó là hêrôin của Ch. Ngoài ra, Ch còn giao nộp: 01 mảnh giấy màu bạc, một mặt có vết cháy đen; 01 bật lửa bằng nhựa màu vàng.

Tại cơ quan điều tra, Chang A Ch khai nhận: Khoảng hơn 14 giờ ngày 23/02/2021 tại khu vực Nhà văn hoá bản Lùng Th, xã San T1, thành phố L, tỉnh L Chang A Ch mua được của một người đàn ông (không rõ lai lịch) 01 gói ma tuý được gói bên ngoài bằng 2 lớp, lớp ngoài gói bằng một mảnh giấy trắng có in chữ màu xanh, đỏ, lớp trong gói bằng một mảnh nilon màu đen, với giá 300.000 đồng. Sau khi mua được ma tuý, Ch cất vào trong túi áo ngực phía trước đang mặc của mình,mục đích là để sử dụng cho bản thân. Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, Ch mang theo gói ma tuý đến khu vực đồi chè cách nhà văn hoá bản Lùng Than khoảng 200 mét chia gói ma tuý thành 02 gói nhỏ, một gói được gói bên ngoài bằng nilon màu hồng, 01 gói gói bên ngoài bằng nilon màu đen sau đó Ch gói chung lại bằng mảnh giấy màu trắng có in chữ màu xanh, đỏ. Chia ma tuý xong, Ch lấy một mảnh giấy bạc chuẩn bị từ trước ra, dùng bật lửa đốt cháy một mặt để sử dụng ma tuý thì bị cơ quan điều tra phát hiện, bắt quả tang.

Kết luận giám định số 05/KLGĐ ngày 24/02/2021 của người giám định tư pháp theo vụ việc kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ của Chang A Ch trong quá trình bắt quả tang ngày 23/02/2021 có tổng khối lượng là 0,34 gam Kết luận giám định số 203/GĐ-KTHS ngày 26/02/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh L kết luận: 02 mẫu chất bột màu trắng gửi giám định là ma tuý, loại Heroine (không hoàn lại mẫu vật gửi giám định).

Cáo trạng số: 15/CT-VKSTP ngày 28/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L đã truy tố Chang A Ch về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L giữ quyền công tố tại phiên toà vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51của Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Chang A Ch từ 18 đến 24 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào chấp hành án, được khấu trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 23/02/2021 đến ngày 01/3/2021. Áp dụng khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo. Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu huỷ một gói niêm phong bằng phong bì công văn của Công an thành phố L, (bên trong có 01 mảnh nilon màu hồng; 01 mảnh nilon màug đen;

01 mảnh giấy màu bạc một mặt có vết cháy đen; 01 bật lửa bằng nhựa màu vàng). Về án phí: Áp dụng Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, đề nghị hội đồng xét xử miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo do thời điểm phạm tội bị cáo đã trên 60 tuổi.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về các quyết định nêu trên.

Tại lời nói sau cùng bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của bản thân và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để được sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố L, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Khoảng 15 giờ 30 phút, ngày 23/02/2021, tại khu vực đồi chè gần nhà văn hoá bản Lùng Than thuộc địa phận bản Lùng Th, xã San T1, thành phố L, tỉnh L, Chang A Ch đang tàng trữ trái phép 0,34 gam Heroine để sử dụng cho bản thân thì bị cơ quan điều tra Công an thành phố L phát hiện bắt quả tang.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Bị cáo Chang A Ch là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, có tính chất nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, nhưng để thỏa mãn nhu cầu của bản thân bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội.

Như vậy, có đủ cơ sở để khẳng định: Hành vi của bị cáo Chang A Ch có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, quan điểm xử lý trách nhiệm hình sự của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là hoàn toàn có cơ sở, không oan sai, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được quy định tại các điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Quá trình công tác tại UBND xã Tả L1 bị cáo được tặng Kỷ niệm chương của Bộ Y tế và Giấy khen của Uỷ ban nhân dân huyện Phong Th, ngoài ra ông nội của bị cáo là ông Chang A P là liệt sỹ; Bị cáo sinh sống ở vùng kinh tế khó khăn, bản thân bị cáo còn phải nuôi dưỡng mẹ già trên 90 tuổi. Đó là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tn cơ sở xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; căn cứ nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo, xét thấy bị cáo Chang A Ch có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 51 của Bộ luật hình sự. Để đảm bảo tính khoan hồng trong chính sách hình sự của Đảng và nhà nước ta đối với người phạm tội biết ăn năn hối cải cũng như khả năng cải tạo của bị cáo. Hội đồng xét xử cân nhắc áp dụng mức hình phạt phù hợp, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và thấp hơn đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà cũng đủ răn đe, giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 điều 249 Bộ luật hình sự bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo tuổi đã cao, không có tài sản riêng, điều kiện kinh tế khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án:

Đi với 0,34 gam heroin Cơ quan điều tra đã mang toàn bộ đi giám định, sau giám định không hoàn lại mẫu vật nên không đặt vấn đề xem xét, giải quyết.

Đi với một gói niêm phong bằng phong bì công văn của Công an thành phố L (bên trong có 01 mảnh nilon màu hồng; 01 mảnh nilon màu đen; 01 mảnh giấy màu bạc một mặt có vết cháy đen; 01 bật lửa bằng nhựa màu vàng), là vật không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Theo lời khai của Chang A Ch, nguồn gốc 0,34gam hêrôin mà bị cáo có được là do mua của một người đàn ông không rõ tên tuổi, địa chỉ với giá 300.000 đồng ở bản San Thàng 1, xã San Thàng, thành phố L, tỉnh L. Kết quả điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch của người đàn ông này nên không có cơ sở để xem xét, xử lý trong vụ án này.

[6] Về án phí: Bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

n cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điểm c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136, các Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án:

1. Tuyên bố bị cáo Chang A Ch phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Chang A Ch 15 (mười lăm) tháng tù, được trừ thời hạn bị cáo bị tạm giữ là 06 (sáu) ngày, bị cáo còn phải chấp hành tiếp là 14 (mười bốn) tháng 24 (hai mươi bốn) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào chấp hành án.

3. Về vật chứng: Tch thu, tiêu hủy một gói niêm phong bằng phong bì công văn của Công an thành phố L, tỉnh L. Theo hồ sơ bên trong là 01 (một) mảnh giấy màu trắng có in chữ màu xanh, đỏ; 01 (một) mảnh nilon màu hồng;

01 (một) mảnh nilon màu đen; 01(một) mảnh giấy màu bạc, một mặt có vết cháy đen; 01 (một) bật lửa bằng nhựa màu vàng.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/5/2021 giữa Công an thành phố L và Chi cục thi hành án dân sự thành phố L).

4. Về án phí: Bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên Tòa án nhân dân cấp trên.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 34/2021/HS-ST

Số hiệu:34/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về