Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 341/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 341/2021/HS-ST NGÀY 23/11/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 11 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 323/2021/TLST-HS ngày 07 tháng 10 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 355/2021/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 11 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Trần Hữu H (tên gọi khác: T), sinh năm 1998, tại tỉnh Sóc Trăng; thường trú: Ấp A, xã Đ, huyện L, tỉnh Sóc Trăng; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: Lớp 7/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Trần Văn Út E, sinh năm 1977 và bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1974; có 01 chị ruột sinh năm 1996; tiền án: Tại bản án hình sự số 271/2019/HSST ngày 10/9/2019 của Tòa án nhân dân thị xã D (nay là thành phố D), tỉnh Bình Dương xử phạt 01 năm 03 tháng tù về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, chấp hành xong hình phạt ngày 18/7/2020, đóng án phí ngày 17/10/2019; tiền sự: Không; bị bắt tạm giam ngày 29/6/2021, có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

2. Nguyễn Đình K, sinh năm 2000, tại tỉnh Vĩnh Long; thường trú: Ấp G xã T, huyện T, tỉnh Vĩnh Long; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: Lớp 6/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật; con ông Nguyễn Văn H (đã chết) và mẹ Lê Thị Hồng N, sinh năm 1962; có 01 anh ruột, sinh năm 1994; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam ngày 29/6/2021, có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Người chứng kiến: Nguyễn Thanh T. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Hữu H và Nguyễn Đình K là bạn bè và cùng sử dụng trái phép chất ma túy từ đầu năm 2021 cho đến khi bị bắt, loại ma túy H và K sử dụng là Methamphetamine.

Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 29/6/2021, K gọi điện rủ H đi nhậu. Sau đó, H điều khiển xe mô tô biển số 53S3 – 8104 đến phòng trọ của K ở số 149 Nguyễn Trãi, khu phố N, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương chở K đi tìm quán nhậu nhưng không có nên K rủ H đi mua ma túy về sử dụng. Do H và K không mang theo tiền nên K nhờ H chở đi mượn tiền của một người anh (không rõ nhân thân). Sau khi mượn được 500.000 đồng, K đưa tiền cho H đi mua ma túy. H lấy tiền cất trong túi quần và sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu VS Mart màu xanh đen, gắn sim số 0931469329 gọi điện cho người đàn ông tên Lương (chưa rõ nhân thân) để hỏi mua 200.000 đồng ma túy và hẹn đến con hẻm gần quán Karaoke Như Phương thuộc khu phố Đông Tác, phường Tân Đông Hiệp, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương để giao. Khi đến gần điểm hẹn, H nói K chờ tại tiệm tạp hóa (không gắn biển hiệu) thuộc tổ 16, đường Đ, khu phố Đ, phường T, còn H đến gặp L để mua ma túy. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, sau khi mua được ma túy, H bỏ vào bên trong quần lót của mình rồi điều khiển xe đến tiệm tạp hóa gặp K thì bị Công an phường T, thành phố D phối hợp với Đội Cảnh sát Kinh tế - ma túy Công an thành phố D tuần tra phát hiện H có dấu hiệu nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra, phát hiện bên trong quần lót của Trần Hữu H cất giấu 01 (một) túi nylon miệng kéo dính bên trong chứa tinh thể màu trắng nên lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói nylon miệng kéo dính bên trong chứa tinh thể màu trắng; 01 xe môtô màu xanh kiểu dáng Wave, nhãn hiệu VINA HOANG MINH, biển số 53S3-8104; 01 điện thoại di động nhãn hiệu VS Mart màu xanh đen, gắn sim số 0931469329.

Kết luận giám định số 410/MT-PC09 ngày 08/7/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương: Tinh thể màu trắng trong 01 túi nylon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng gửi giám định là ma túy, khối lượng là 0,4488 gam, loại Methamphetamine.

* Về xử lý vật chứng:

Đối với xe môtô màu xanh kiểu dáng Wave, nhãn hiệu VINA HOANG MINH, biển số 53S3-8104, số khung VDTPCG0022700995, số máy VDT1P50FMG-3 100995 là xe của H mua lại của người khác không có giấy tờ, qua xác minh không tìm được thông tin của chủ sở hữu, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An đã đăng báo truy tìm chủ sở hữu, tuy nhiên không tìm được nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

Đối với điện thoại di động nhãn hiệu VS Mart màu xanh đen, gắn sim số 0931469329 là điện thoại của Trần Hữu H, H sử dụng điện thoại này để mua ma túy sử dụng nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

Đối với bì thư đã niêm phong bên trong chứa 0,3994 gam ma túy loại Methamphetamine là mẫu vật hoàn lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với người đàn ông tên L đã bán ma túy cho H do chưa rõ nhân thân, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An đang tiếp tục điều tra xác minh, xử lý sau.

Tại cáo trạng số 335/CT – VKS-DA ngày 05 tháng 10 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Trần Hữu H, Nguyễn Đình K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h, khoản 1 Điều 52; Điều 58 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Trần Hữu H từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Nguyễn Đình K từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù.

Xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước xe môtô màu xanh kiểu dáng Wave, nhãn hiệu VINA HOANG MINH, biển số 53S3-8104, số khung VDTPCG0022700995, số máy VDT1P50FMG-3 100995 và điện thoại di động VS Mart màu xanh đen của bị cáo Trần Hữu H; đề nghị tịch thu tiêu hủy 0,3994 gam ma túy loại Methamphetamine là mẫu vật hoàn lại sau giám định và số sim 0931469329.

Tại đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt: Các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình tố tụng, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; người chứng kiến cũng không có ý kiến gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Ngày 19/11/2021, các bị cáo có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, xét đây là sự tự nguyện của các bị cáo căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 290 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt các bị cáo.

[2] Căn cứ vào lời khai của bị cáo trong quá trình tố tụng, biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ có đủ cơ sở xác định: Vào khoảng 22 giờ 00 phút ngày 29/6/2021, tại tiệm tạp hóa (không gắn biển hiệu) thuộc tổ 16, khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương, Công an phường T, thành phố D phối hợp với Đội Cảnh sát Kinh tế - ma túy Công an thành phố Dĩ An tuần tra phát hiện bắt quả tang Trần Hữu H, Nguyễn Đình K cất giữ 01 gói ma túy loại methamphetamine có khối lượng là 0,4488 gam. Như vậy, hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng 335/CT – VKS-DA ngày 05 tháng 10 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với các bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do các bị cáo thực hiện là nghiêm trọng đã xâm phạm vào sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma tuý, gây tác hại cho xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến vai trò của các bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo đủ để cải tạo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[4] Trong vụ án có đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn, bị cáo K là người đề xuất rủ bị cáo H đi mua ma túy về sử dụng; bị cáo H là người trực tiếp đi mua ma túy.

[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Đình K không có. Bị cáo Trần Hữu H vào ngày 10/9/2019 bị Tòa án nhân dân thị xã D (nay là thành phố Dn), tỉnh Bình Dương xử phạt 01 năm 03 tháng tù về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt ngày 18/7/2020, chưa được xóa án tích lại phạm tội mới là “tái phạm” theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo được xem xét khi quyết định hình phạt: Quá trình tố tụng, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

[7] Về nhân thân: Các bị cáo là người nghiện ma túy, bị cáo K chưa có tiền án, tiền sự.

[8] Xử lý vật chứng:

- Xét 01 bì thư niêm phong số 410/PC09 có khối lượng 0,3994gam Methamphetamine mẫu vật hoàn lại sau giám định, là vật cấm lưu thông, cần tịch thu tiêu hủy;

- Xét xe môtô màu xanh kiểu dáng Wave, nhãn hiệu VINA HOANG MINH, biển số 53S3-8104, số khung VDTPCG0022700995, số máy VDT1P50FMG-3 100995 của bị cáo Trần Hữu H mua lại của người khác nhưng không xác định được chủ sở hữu. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố D đã đăng tin truy tìm chủ sở hữu, nhưng không có người đến nhận. Bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước;

- Xét điện thoại di động VS Mart màu xanh đen của bị cáo Trần Hữu H, bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước;

- Xét sim số 0931469329, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo Trần Hữu H hiện chưa rõ nhân thân Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D tiếp tục xác minh.

[9] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Xét các bị cáo phạm tội nghiêm trọng, đều là người nghiện ma túy, nên Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tù có thời hạn cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ sức giáo dục các bị cáo thành công dân có ích và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

- Hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ đến 500.000.000đ, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu 01 phần hoặc toàn bộ tài sản. Hội đồng xét xử xét thấy, mức hình phạt tù đối với các bị cáo cũng đủ sức giáo dục, cải tạo nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

[10] Mức hình phạt, xử lý vật chứng như Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

[11] Án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Trần Hữu H (tên gọi khác: Tân) và Nguyễn Đình K phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h, khoản 1 Điều 52; Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Hữu H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/6/2021.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình K 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/6/2021.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c, khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự;

điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư niêm phong số 410/PC09 có khối lượng 0,3994gam Methamphetamine mẫu vật hoàn lại sau giám định và sim số 0931469329.

- Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước điện thoại di động VS Mart màu xanh đen và xe môtô màu xanh kiểu dáng Wave, nhãn hiệu VINA HOANG MINH, biển số 53S3-8104, số khung VDTPCG0022700995, số máy VDT1P50FMG-3100995.

(Biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/10/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố D, tỉnh Bình Dương).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Trần Hữu H (tên gọi khác: T) và Nguyễn Đình K, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 341/2021/HS-ST

Số hiệu:341/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về