Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 33/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG CHÀ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 33/2021/HSST NGÀY 12/08/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở TAND huyện MC, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 33/2021/TLST-HS ngày 28 tháng 7 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án nhân dân huyện MC số: 34/2021/QĐXXST- HS ngày 29 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo:

Chớ A C (tên gọi khác: Không), sinh năm 1979, tại huyện MC, tỉnh Điện Biên.

Nơi cư trú: Bản SL 1, xã SL, huyện MC, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Làm ruộng, nương; trình độ văn hóa: 4/12; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Chớ Xá K, sinh năm 1940 và bà Hồ Thị S, đã chết; vợ: Hồ Thị L, sinh năm 1981; bị cáo có 03 người con, con lớn nhất sinh năm 2007, con nhỏ nhất sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: 02 lần bị kết án; tại Bản án số 19/2007/HS-ST ngày 16/8/2007 của TAND huyện MC xử phạt bị cáo 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và Bản án số 35/2013/HSST ngày 15/5/2013 của TAND huyện MC xử phạt bị cáo 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, ngày 19/9/2014 chấp hành xong án phạt tù.

Bị cáo bị tạm giữ ngày10/6/2021, tạm giam từ ngày 19/6/2021. Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo : ông Lường Văn B. Trợ giúp viên pháp Chớ của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên, Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Hồ Thị L - Sinh năm 1981;

Trú tại: Bản SL 1, xã SL, huyện MC, tỉnh Điện Biên. Có mặt

Người làm chứng:

- Quách Văn L - Sinh năm 1971, trú tại: Tổ 9, thị trấn MC, huyện MC, tỉnh Điện Biên. Vắng mặt

- Phan Trung T - Sinh năm 1978, Trú tại: Bản C, xã N, huyện MC, tỉnh Điện Biên. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Để có ma túy sử dụng cho bản thân, khoảng 18 giờ ngày 09/6/2021, Chớ A C đi bộ từ nhà xuống đường gặp một người đàn ông không rõ lai lịch, qua trao đổi C mua của người này 01 gói Heroine giá 800.000 đồng. Khoảng 5 giờ 30 phút ngày 10/6/2021, C điều khiển xe mô tô BKS 27H2-7364 và mang theo gói Heroine đi từ nhà xuống khu ký túc xá trường tiểu học số 2 MM, thuộc bản PG1, xã MM, huyện MC, tỉnh Điện Biên để đi làm thuê. Khi đến chỗ làm C đi vào phòng ngủ ngồi ở giường tầng 2, lấy gói Heroine dùng dao lam chia nhỏ thành 06 gói, trong đó 05 gói mỗi gói được gói trong mảnh nilon màu xanh được hơ lửa gắn kín, cả 05 gói được gói trong mảnh nilon màu trắng và 01 gói được gói trong mảnh nilon màu xanh; số bột vụn còn lại C lấy ra sử dụng hết rồi đi làm. Đến trưa ăn cơm xong C đi về phòng, lên giường ngủ của C lấy 01 gói Heroine trong gói có 05 gói trích một ít ra sử dụng, phần còn lại C gói lại như cũ rồi để trên đầu giường ngủ chỗ C ngồi. Đến 12 giờ 30 phút cùng ngày khi vừa sử dụng xong ma túy thì tổ công tác Công an huyện MC phát hiện, bắt quả tang thu giữ của C 06 gói Heroine có khối lượng 4,203 gam.

Kết luận giám định số: 661/GĐ-PC09, ngày 19/6/2021, của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Điện Biên kết luận: mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Chớ A C gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine. Khối lượng vật chứng thu giữ của Chớ A C là 4,203 gam.

Cáo trạng số: 28/CT-VKSMC ngày 27/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân, huyện MC, tỉnh Điện Biên đã truy tố bị cáo Chớ A C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện MC, tỉnh Điện Biên giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử sơ thẩm:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo Chớ A C từ 3 năm 9 tháng tù đến 4 năm 3 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án. Đề nghị HĐXX áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 BLTTHS: tịch thu tiêu hủy 4,079 gam Heroine còn lại sau khi trừ mẫu giám định, 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, 01 mảnh nilon màu trắng, 06 mảnh nilon màu xanh, 01 bật lửa ga màu đỏ, 01 mảnh giấy bạc bị đốt cháy dở, 01 con dao lam; Trả bị cáo và vợ bị cáo là chị Hồ Thị L chiếc xe mô tô hiệu YAMAHA loại SIRIUS màu sơn đen bạc, BKS 27H2-7364, số máy 277203, số khung 277049 xe đã có nhiều vết xước, không có hộp xích, không có gương phải kèm theo 01 chìa khóa xe và đăng ký xe số 000579 mang tên Lầu A P. Trả bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Coolpad màu đen, viền đỏ, dạng bàn phím, đã qua sử dụng, 01 giấy chứng minh mang tên Chớ A C.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm hình sự đối với bị cáo.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời nói sau cùng bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt và miễn án phí hình sự sơ thẩm, miễn hình phạt bổ sung. Trả lại chiếc điện thoại di động cho bị cáo, riêng chiếc xe máy đề nghị giao lại cho vợ bị cáo quản lý, sử dụng khi bị cáo đi chấp hành án.

Người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến tranh luận về tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát nhân dân huyện MC đã truy tố và bản luận tội của Kiểm sát viên. Đề nghị HĐXX xem xét đến điều kiện sinh sống, hoàn cảnh phạm tội của bị cáo: Do bị cáo là người dân tộc, sinh sống ở vùng đặc biệt khó khăn; mới học hết lớp 4/12 nên trình độ và nhận thức có phần hạn chế, có con còn nhỏ, là hộ nghèo hoàn cảnh kinh tế khó khăn, là lao động chính trong gia đình, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội, nên đề nghị HĐXX xem xét áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS xử phạt bị cáo ở mức án 3 năm 6 tháng tù để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội, xem xét miễn án phí và hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Trả lại bị cáo và vợ bị cáo chiếc xe mô tô do bị cáo sử dụng để đi làm thuê, không liên quan đến hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và là phương tiện duy nhất để gia đình bị cáo đi lại, lao động sản xuất.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Hồ Thị L đề nghị Hội đồng xét xử trả lại chiếc xe để phục vụ trong gia đình do bị cáo chỉ sử dụng để đi làm thuê, chị không biết việc bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy, số tiền mua xe phần lớn là của chị bỏ ra do bị cáo là người nghiện không có tài sản. Chị L nhất trí với ý kiến của bị cáo về việc được nhận chiếc xe để quản lý, sử dụng khi bị cáo đi chấp hành án.

Những người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã công bố lời khai của những người này, bị cáo nhất trí với lời khai của những người làm chứng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1. Tại phiên tòa, bị cáo Chớ A C đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. HĐXX thấy rằng lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa đã phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và Biên bản bắt người phạm tội quả tang và biên bản mở niêm phong xác định khối lượng vật chứng và kết quả giám định, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Lời khai của bị cáo cũng phù hợp với số ma túy bị thu giữ, phù hợp với lời khai của người làm chứng và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Do đó đủ căn cứ kết luận vào hồi 12 giờ 30 phút ngày 10/6/2021, tại ký túc xá trường tiểu học số 2 Mường Mươn, thuộc bản Púng Giắt 1, xã Mường Mươn, huyện MC, tỉnh Điện Biên, Chớ A C có hành vi tàng trữ trái phép 4,203 gam Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân.

HĐXX thấy rằng hành vi nêu trên của bị cáo Chớ A C là nguy hiểm cho xã hội, đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy " quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do pháp luật quy định. Hành vi tàng trữ 4,203 gam Heroine của bị cáo đã phạm vào tình tiết định khung quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS. Viện kiểm sát nhân dân huyện MC truy tố và kết luận bị cáo phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật.

2. Xét về tính chất của vụ án và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Hội đồng xét xử thấy rằng: Tình hình tội phạm ma túy ngày càng diễn biến phức tạp, mặc dù pháp luật xử lý nghiêm minh đối với các loại tội phạm này. Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận bị cáo biết việc Nhà nước cấm tất cả các hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép các chất ma túy, biết tác hại của ma túy đối với sức khỏe và kinh tế của người sử dụng, nhưng để thỏa mãn nhu cầu nghiện ma túy bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, hành vi phạm tội của bị cáo có tính chất nghiêm trọng đã làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội trên địa bàn. Xâm phạm chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của nhà nước.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên bị cáo đã hai lần bị kết án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy đã được xóa án tích và là người nghiện ma túy.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử thấy rằng tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, tỏ ra ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của bản thân. Bởi vậy Hội đồng xét xử xét thấy cần xem xét áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS, để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Ngoài hình phạt chính, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án (biên bản xác minh thu nhập, tài sản) và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, thu nhập từ làm ruộng nương và đi làm thuê, điều kiện kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, các con còn nhỏ. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo. Người bào chữa cho bị cáo đề nghị HĐXX áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, không áp dụng hình phạt bổ sung và miễn án phí hình sư sơ thẩm đối với bị cáo. HĐXX thấy rằng đề nghị của người bào chữa là có căn cứ nên cần chấp nhận một phần để xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

3. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên Công an huyện MC, Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân nhân huyện MC; trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện theo đúng quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người bào chữa cho bị cáo không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng với qui định của pháp luật.

4. Về vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 BLTTHS Đối với 4,079 gam Heroine còn lại sau khi trừ mẫu giám định, 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, 01 mảnh nilon màu trắng, 06 mảnh nilon màu xanh, 01 bật lửa ga màu đỏ, 01 mảnh giấy bạc bị đốt cháy dở, 01 con dao lam là vật cấm tàng trữ lưu hành và là công cụ bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với chiếc xe mô tô hiệu YAMAHA loại SIRIUS màu sơn đen bạc, BKS 27H2-7364, số máy 277203, số khung 277049 xe đã có nhiều vết xước, không có hộp xích, không có gương phải kèm theo chìa khóa xe và đăng ký xe số 000579 mang tên Lầu A Pó do bị cáo và vợ mua ở một cửa hàng xe cũ, chưa làm thủ tục sang tên, đổi chủ là tài sản chung của vợ, chồng bị cáo. Bị cáo chỉ sử dụng đi từ nhà ở bản SL 1, xã SL xuống bản PG, xã MM để làm thuê, không sử dụng để tàng trữ trái phép chất ma túy, số tiền mua xe phần lớn của vợ bị cáo bỏ ra mua, chiếc xe hiện nay là phương tiện duy nhất để vợ con bị cáo đi lại, sản xuất do vậy cần trả lại vợ, chồng bị cáo. Tại phiên tòa bị cáo và chị Hồ Thị L thống nhất giao cho chị Hồ Thị L quản lý, sử dụng chiếc xe, do vậy cần trả chiếc xe trên cho chị Hồ Thị L. Trả bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Coolpad màu đen, viền đỏ, dạng bàn phím, đã qua sử dụng, 01 giấy chứng minh mang tên Chớ A C do không liên quan đến hành vi phạm tội.

5. Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Chớ A C do bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo C do bị cáo không biết rõ họ tên, địa chỉ của người này nên không có cơ sở để điều tra làm rõ. HĐXX không xem xét giải quyết trong vụ án.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Chớ A C, Công an huyện MC đã ra quyết định số 38/QĐ-XPHC ngày 22/7/2021, hình thức xử phạt Cảnh cáo đối với Chớ A C.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Chớ A C phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, khoản 1 Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Chớ A C 4 (bốn) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 10/6/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;

điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 BLTTHS - Tịch thu tiêu hủy: 4,079 gam Heroine còn lại sau khi trừ mẫu giám định, 01 phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, 01 mảnh nilon màu trắng, 06 mảnh nilon màu xanh, 01 bật lửa ga màu đỏ, 01 mảnh giấy bạc bị đốt cháy dở, 01 con dao lam.

- Trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Hồ Thị Li - Sinh năm 1981; Trú tai: Bản SL 1, xã SL, huyện MC, tỉnh Điện Biên chiếc xe mô tô hiệu YAMAHA loại SIRIUS màu sơn đen bạc, BKS 27H2-7364, số máy 277203, số khung 277049 xe đã có nhiều vết xước, không có hộp xích, không có gương phải kèm theo chìa khóa xe và đăng ký xe số 000579 mang tên Lầu A Pó.

- Trả bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Coolpad màu đen, viền đỏ, dạng bàn phím, đã qua sử dụng, 01 giấy chứng minh mang tên Chớ A C do không liên quan đến hành vi phạm tội.

(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện MC và Chi cục Thi hành án dân sự huyện MC, tỉnh Điện Biên ngày 27/7/2021).

3. Về án phí:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136/BLTTHS; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với Chớ A C

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào các Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo Chớ A C có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 12/8/2021).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo những vấn đề có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 33/2021/HSST

Số hiệu:33/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Chà - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về