Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 326/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 326/2022/HS-ST NGÀY 04/11/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 11 năm 2022 tại Hội trường A, Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 307/TLST-HS ngày 12 tháng 10 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 322/2022/QĐXXST-HS ngày 25/10/2022 đối với các bị cáo:

1. Hà Chung K, sinh năm 1998 tại tỉnh T; thường tr : Số 310 ấp L, xã M, huyện C, tỉnh T; tạm tr : Tổ 15, khu phố 8, phường H, thành phố B, tỉnh Đ; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Hà Văn Đ, sinh năm 1973 và bà Nguyễn Thị O, sinh năm 1976; bị cáo có 01 em ruột, sinh năm 2003; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/6/2022 cho đến nay. Có mặt 2. Ngô Văn N, sinh năm 2001 tại tỉnh Đ; thường tr : tổ 7, ấp 3, xã T2, huyện H, tỉnh Đ; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Ngô Văn Q, sinh năm 1963 và bà Châu Thị T2, sinh năm 1964; bị cáo có 03 anh chị ruột, lớn sinh năm 1996, nhỏ sinh năm 2001; tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 19/6/2022 cho đến nay. Có mặt Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Bùi Văn T3, sinh năm 1990; địa chỉ: Số 85/5E, Tân Thới 1, xã Tân Hiệp, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

Người chứng kiến:Nguyễn Hoài H. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 19/6/2022, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Hà Chung K và Ngô Văn N bàn với nhau mỗi người bỏ ra 250.000 đồng để mua ma túy sử dụng. N đưa cho K 250.000 đồng, K điều khiển xe mô tô biển số 52Y3 - xxx, chở N từ đường Mạch Thị Liễu, khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh B đến khu vực tổ 6, khu phố 2, phường A, thành phố T4, tỉnh B gặp một người đàn ông (không rõ nhân thân lai lịch) mua 01 gói nilon hàn kín bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng (ma túy đá) với số tiền 500.000đồng. Sau khi mua được ma túy, N cầm gói ma túy trong lòng bàn tay trái, K điều khiển xe mô tô chở N tìm nơi sử dụng. Khi đến bãi đất trống, trên đường Chiêu Liêu, thuộc khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh B thì bị lực lượng tuần tra Công an phường T, yêu cầu dừng xe kiểm tra. L c này N thả gói nilon chứa ma túy xuống đường thì bị lực lượng Công an phường T phát hiện lập biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng, lập hồ sơ chuyển giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An để điều tra theo thẩm quyền.

Tại bản Kết luận giám định số: 291/MT-PC09 ngày 28/6/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương xác định: Mẫu tinh thể gửi giám định thu giữ của Ngô Văn N và Hà Chung K là ma túy, có khối lượng: 0,3823 gram, loại Methamphetamine.

Đối với đối tượng bán ma túy hiện chưa rõ nhân thân lai lịch, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D, tỉnh B tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

Vật chứng thu giữ: 01 gói nilon hàn kín chứa tinh thể màu trắng có khối lượng 0.3823 gram; 01 xe mô tô biển số 52Y3 - xxx, số khung CH0ND61Y - 01407; số máy Z152FMHWM - 00001407 của Hà Chung K.

Tại cáo trạng số 334/CT-VKS ngày 10 tháng 10 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh B truy tố bị cáo Hà Chung K và Ngô Văn N về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Hà Chung K và Ngô Văn N mức án từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng:

- 01 bì thư được niêm phong ký hiệu 291/PC09 bên trong chứa ma túy đề nghị tịch thu tiêu hủy.

- 01 xe mô tô biển số 52Y3 - xxx, số khung CH0ND61Y – 01407; số máy Z152FMHWM - 00001407 là xe của bị K Hà Chung K sử dụng vào việc phạm tội đề nghị tịch thu sung quỹ Nhà Nước.

Trong quá trình điều tra các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã truy tố đồng thời bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đ ng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ xác định hành vi phạm tội của các bị cáo: Vào khoảng 16 giờ ngày 19 tháng 6 năm 2022, bị cáo Ngô Văn N và bị cáo Hà Chung K góp tiền mua ma túy để sử dụng, có khối lượng 0,3823 gram loại Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, STT 323 Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Như vậy, hành vi trên của bị cáo Ngô Văn N và bị cáo Hà Chung K đã đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bản Cáo trạng số 334/CT-VKS ngày 10 tháng 10 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh B và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với các bị cáo là có căn cứ đ ng người, đ ng tội và đ ng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do các bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: các bị cáo không có

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình tố tụng, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử sẽ áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội.

[6] Về nhân thân: Bị cáo Hà Chung K và bị cáo Ngô Văn N là người nghiện ma túy.

[7] Xử lý vật chứng:

[7.1] Xét: 01 bì thư được niêm phong ký hiệu 291/PC09 bên trong chứa 0,2503 gram ma túy, loại Methamphetamine là mẫu vật hoàn lại sau giám định, là chất Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy;

[7.2] Xét: 01 xe mô tô biển số 52Y3 - xxx, số khung CH0ND61Y - 01407; số máy Z152FMHWM - 00001407 thu giữ của bị cáo Hà Chung K, do liên quan đến việc phạm tội nên cần tịch thu, sung ngân sách Nhà nước.

[8] Đối với đối tượng đã bán ma túy cho các bị cáo không rõ nhân thân, lai lịch Cơ quan điều tra Công an thành phố Dĩ An đang tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau là phù hợp với quy định của pháp luật.

[9] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An là phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[10] Án phí sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Hà Chung K và bị cáo Ngô Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1.1 Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Hà Chung K 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 19/6/2022.

1.2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Ngô Văn N 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 19/6/2022.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

2.1. Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư được niêm phong ký hiệu 291/PC09 bên trong chứa ma túy còn lại sau giám định có khối lượng là: 0,2503 gram, loại Methamphetamine.

2.2. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 xe mô tô biển số 52Y3 - xxx, số khung CH0ND61Y - 01407; số máy Z152FMHWM - 00001407 thu giữ của bị cáo Hà Chung K (Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/10/2022 tại Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố D, tỉnh B).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Hà Chung K và bị cáo Ngô Văn N mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

37
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 326/2022/HS-ST

Số hiệu:326/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về