Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 321/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 321/2022/HS-ST NGÀY 27/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 27 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 303/2022/TLST-HS ngày 07 tháng 7 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 319/2022/QĐXXST-HS, ngày 11 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo: Họ và tên: Dương Quốc H, sinh năm: 1994; tại Đồng Nai.

Hộ khẩu thường trú: Số 23B/85, khu phố 12, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

Chỗ ở: Tổ 1, ấp Lộ Đức, xã H 3, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai Giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: Không; con ông Dương Văn H và bà Nguyễn Thị Vân H. Bị cáo sống chung với chị Ngô Tùng Bảo T, sinh năm 2003, có 01 con chung với chị T, sinh năm 2022.

Tiền sự: Không.

Tiền án: Ngày 20/9/2019, bị Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt 01 năm 02 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”.

Bị bắt quả tang ngày 21/7/2021. Ngày 22/7/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B ra quyết định trả tự do, ngày 09/4/2022 bị cáo ra đầu thú và bị tạm giữ, chuyển tạm giam theo Lệnh số 542 ngày 12/4/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B.

(Bị cáo H2 có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Dương Quốc H2 là người sử dụng trái phép chất ma túy. Khoảng giữa tháng 6/2021, trong lúc H2 nằm điều trị bệnh (do bị đánh) tại Bệnh viện 7B thuộc phường Tân Tiến, thành phố B thì đối tượng tên H (bạn của H2, chưa rõ nhân thân lai lịch) đến thăm H2 và cho H2 02 gói ma túy tổng hợp (ma túy đá). Sau khi xuất viện, H2 mang 02 gói ma túy nêu trên về phòng trọ của H2 tại khu phố 4, phường Trảng Dài, thành phố B cất giấu để sử dụng dần. Ngày 20/7/2021, H2 đã lấy một phần ma túy để sử dụng.

Đến 21 giờ 45 phút ngày 21/7/2021, H2 lấy 02 gói ma túy nêu trên rồi dùng cuộn băng vải y tế cuốn lại và cất giấu trên người của H2 (bên nách phải). Sau đó, H2 mang theo 02 gói ma túy đi bộ từ phòng trọ đến khu vực chốt phòng dịch Covid thuộc tổ 99, khu phố 10, phường H, thành phố B thì bị Công an phường H phối hợp với lực lượng phòng chống dịch kiểm tra, phát hiện bắt quả tang. Sau đó, Công an phường H chuyển hồ sơ đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B xử lý.

Do trước khi bị bắt H2 bị thương tích đang điều trị nên ngày 22/7/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã ra quyết định trả tự do cho H2 và áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Quá trình điều tra, H2 đã bỏ trốn và bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên ra quyết định truy nã. Đến ngày 09/4/2022, H2 đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B đầu thú.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 02 gói nylon bên trong chứa chất tinh thể màu trắng đã được niêm phong. H2 khai là ma túy.

Tại kết luận giám định số 1543/KLGĐ-PC09, ngày 26/7/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,3906gam, loại Methamphetamine.

Đối với đối tượng tên H chưa rõ lai lịch, địa chỉ đã cho H2 ma túy để sử dụng, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý sau.

Tại bản Cáo trạng số 317/CT-VKSBH ngày 29/6/2022 Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Dương Quốc H2 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên bản cáo trạng đã truy tố. Đề nghị, Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017, tuyên bố bị cáo Dương Quốc H2 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt, bị cáo Dương Quốc H2 mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Ngoài ra, đề nghị Hội đồng xét xử, xem xét xử lý vật chứng và án phí theo đúng quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố B, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Dương Quốc H2 đã thừa nhận bản thân bị cáo là người sử dụng ma túy, khoảng 21 giờ 45 phút ngày 21/7/2021 tại tổ 99, khu phố 10, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. H2 đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,3906gam ma túy loại Methamphetamine thì bị Công an phường H phát hiện bắt quả tang.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo, và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo Dương Quốc H2 đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 đúng như cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và là một trong những nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm cũng như các tệ nạn xã hội khác. Bản thân bị cáo biết rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy bị pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn bất chấp pháp luật để thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo là người có tiền án chưa được xóa án tích, không lấy đó làm bài học để rút kinh nghiệm cho mình, sống có ích cho gia đình và xã hội nay lại phạm tội mới. Do vậy, cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội nhằm cải tạo giáo dục bị cáo trở thành người tốt và cũng để răn đe và phòng ngừa chung.

[5] Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau khi bị truy nã bị cáo đã ra đầu thú nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

[6] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự.

[7] Đối với đối tượng H chưa rõ lai lịch, địa chỉ đã cho H2 ma túy để sử dụng, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B tiếp tục xác minh làm rõ và xử lý sau là phù hợp.

[8] Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong số 1543/KLGĐ- PC09, ngày 26/7/2021, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai. Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 12/7/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố B.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo Dương Quốc H2 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Dương Quốc H2 02 (Hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/4/2022 nhưng được trừ đi thời gian bị tạm giữ từ ngày 21/7/2021 đến ngày 22/7/2021.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong số 1543/KLGĐ-PC09, ngày 26/7/2021, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai. Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 12/7/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố B.

Về án phí: Áp dụng Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Dương Quốc H2 phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án sơ thẩm hình sự xử công khai bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 321/2022/HS-ST

Số hiệu:321/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về