TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH Đ
BẢN ÁN 31/2024/HS-ST NGÀY 08/04/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Hôm nay, Ngày 08 tháng 4 năm 2024, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh Đ và 01 điểm cầu thành phần trụ sở Công an huyện A, tỉnh Đ, xét xử trực tuyến sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 33/2024/TLST-HS ngày 12 tháng 3 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2024/QĐXXST- HS ngày 26 tháng 3 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh Đ đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Mạnh H; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh năm 1981, nơi sinh: huyện A, tỉnh Đ; Nơi cư trú: Bản PT, xã BL, huyện MA, tỉnh Đ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hoá: 9/12; Bố đẻ: Nguyễn Đức H (đã chết) và mẹ đẻ Nguyễn Thị Ỏ, sinh năm 1956; Bị cáo có vợ là Lường Thị T, sinh năm 1988 (đã ly hôn) và 02 người con, con lớn nhất sinh năm 2006, con nhỏ nhất sinh năm 2013; Tiền sự, Tiền án: Không; Nhân thân: Đã bị kết án. Năm 2002 bị Toà án nhân dân huyện Tuần Giáo phạt 15 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo bản án số 07/2002/HSST, ngày 25/10/2002, đã chấp hành xong hình phạt; Năm 2013 bị Toà án nhân dân huyện A phạt 07 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc” theo bản án số 06/2013/HSST, ngày 26/11/2013, đã chấp hành xong hình phạt, đến ngày phạm tội đương nhiên xoá án tích ; chưa bị xử lý hành chính.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/10/2023. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện A, tỉnh Đ. Bị cáo có mặt tại điểm cầu thành phần.
* Người tham gia tại điểm cầu thành phần:
1. Ông Nguyễn Thế L, Thư ký Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh Đ, có mặt.
2. Ông Tòng Văn B – Kiểm sát viên VKSND huyện A, tỉnh Đ (có mặt).
3. Cán bộ, chiến sỹ tham gia dẫn giải, bảo vệ: Tổ trưởng là Ông Tòng Văn Đoàn – Thượng uý, nơi công tác Công an huyện A (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Mạnh H bị Viện kiểm sát nhân dân huyện A, tỉnh Đ truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Khoảng 19 giờ ngày 25/10/2023 Nguyễn Mạnh H sang nhà gia đình anh Lò Văn P, sinh năm 2001 ở cùng bản mượn xe mô tô đi lên khu vực bản CS, xã XL, huyện MA tìm mua ma tuý sử dụng. Khi đi đến đoạn đường thuộc bản Chùa Sấu thì Nguyễn Mạnh H gặp một người đàn ông không quen biết đang đứng cạnh đường tự giới thiệu tên là Di. Qua trao đổi Nguyễn Mạnh H đã hỏi mua được của người này 01 gói Heroine được gói bằng mảnh nilon màu hồng và 80 viên Methamphetamine đựng trong túi zip nilon màu xanh với giá 2.500.000 đồng. Mua được ma tuý Nguyễn Mạnh H quay về trả xe cho anh Lò Văn P, còn người đàn ông bán ma tuý đi đâu không rõ. Về đến nhà Nguyễn Mạnh H cắt chia gói Heroine ra thành các gói nhỏ khác nhau rồi dùng mảnh giấy bạc màu vàng gói lại để sử dụng dần. Khoảng 08 giờ ngày 28/10/2023 Nguyễn Mạnh H cầm theo toàn bộ số ma tuý đi sang nhà gia đình Lò Văn K, sinh năm 1979, trú tại bản Hồng Sọt, xã Búng Lao, huyện A chơi. Hồi 09 giờ cùng ngày 28/10/2023 khi Nguyễn Mạnh H đang ngồi ở bàn uống nước dưới gầm sàn nhà gia đình anh Lò Văn K bỏ toàn bộ Heroine và hồng phiến lên mặt bàn chuẩn bị sử dụng thì bị tổ công tác Công an xã Búng Lao vào kiểm tra. Tiến hành kiểm tra trên mặt bàn tại vị trí Nguyễn Mạnh H đang ngồi tổ công tác phát hiện 01 túi zip nilon màu xanh bên trong chứa 80 viên Methamphetamine có khối lượng 6,93 gam và 04 gói Heroine được gói bằng mảnh giấy bạc màu vàng có khối lượng 0,16 gam. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong thu giữ vật chứng của Nguyễn Mạnh H.
Theo biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu giám định ngày 28/10/2023 của Công an huyện A và Kết luận giám định số 1546/KL-KTHS, ngày 02 tháng 11 năm 2023 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đ đã kết luận:
- Khối lượng vật chứng thu giữ của Nguyễn Mạnh H gồm : 0,16 gam chất bột màu trắng; 6,93 gam viên nén màu hồng.
- 04 Mẫu chất bột màu trắng ký hiệu M1, M2, M3, M4 trích ra từ vật chứng thu giữ của Nguyễn Mạnh H gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine.
- Mẫu các viên nén màu hồng trích ra từ vật chứng thu giữ của Nguyễn Mạnh H gửi giám định là chất ma túy: Loại Methamphetamine.
Tại bản cáo trạng số: 12/CT-VKSMA ngày 11/3/2024 của Viện kiểm sát nhân dân Huyện A, tỉnh Đ đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện A để xét xử bị cáo Nguyễn Mạnh H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249 BLHS.
Tại phiên toà, vị đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Mạnh H. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm n khoản 2 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS. Xử phạt Nguyễn Mạnh H từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù.
Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46; điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS. Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu để tiêu hủy:
- 0,05 gam Heroine, 6,3 gam Methamphetamine là vật chứng còn lại của vụ án sau khi lấy mẫu giám định.
- 01 túi zip nilon màu xanh; 04 mảnh giấy bạc màu vàng không có giá trị.
Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Nguyễn Mạnh H phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo Nguyễn Mạnh H thừa nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như cáo trạng truy tố. Bị cáo nhất trí nội dung bản Cáo trạng cũng như bản luận tội của VKSND huyện A, bị cáo không có tranh luận gì.
Bị cáo nói lời sau cùng trước khi nghị án: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Nội dung vụ án:
Qua phần tranh tụng công khai tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Mạnh H đã khai và công nhận: Hồi 09 giờ 00 phút ngày 28/10/2023 tại bản Hồng Sọt, xã Búng Lao, huyện A, tỉnh Đ bị cáo bị bắt vì đang tàng trữ trái phép 0,16 gam Heroine và 6,93 gam Methamphetamine, mục đích của bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng. Lời khai nhận tội của bị cáo trước phiên tòa ngày hôm nay phù hợp với các tài liệu và chứng cứ có trong hồ sơ, cũng như cáo trạng số 12/CT- VKS-MA, ngày 11/3/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện A đã truy tố.
Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội; Bị cáo tàng trữ trái phép 0,16 gam Heroine và 6,93 gam Methamphetamine (tổng khối lượng hai chất ma túy là 7,09 gam) đủ định lượng buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249 BLHS.
Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn thực hiện. Do vậy Hội đồng xét xử có đủ căn cứ pháp lý để xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại Điều 249 BLHS quy định: “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
…g) ...Heroine,…,Methamphetamine có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam ...n) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm e đến điểm m khoản này".
[2] Xét về tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp tội phạm rất nghiêm trọng, gây nguy hại rất lớn cho xã hội có mức cao nhất của khung hình phạt đến 10 năm tù, được quy định tại khoản 1 Điều 9 Bộ luật hình sự năm 2015. Vì vậy bị cáo phải chịu hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội đã gây ra.
[3] Xét về hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra: Hành vi mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm trực tiếp đến sự độc quyền của nhà nước trong lĩnh vực quản lý và sử dụng các chất ma túy, đã tiếp tay cho các loại tội phạm gia tăng, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an trên địa bàn, cần phải được xử lý nghiêm.
[4] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được bố mẹ sinh ra và lớn lên tại huyện A, tỉnh Đ, bị cáo học hết lớp 9/12 thì nghỉ học ở nhà lao động sản xuất cùng gia đình. Bị cáo chưa có tiền sự; đã bị xét xử. Năm 2002 bị Toà án nhân dân huyện Tuần Giáo phạt 15 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo bản án số 07/2002/HSST, ngày 25/10/2002, đã chấp hành xong bản án; Năm 2013 bị Toà án nhân dân huyện A phạt 07 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc” theo bản án số 06/2013/HSST, ngày 26/11/2013, đã chấp hành xong hình phạt, đến ngày phạm tội đương nhiên xoá án tích. Bị cáo có nhân thân xấu. Bị cáo nhận thức rõ việc tàng trữ, mua bán ma túy là vi phạm pháp luật, bị cáo vẫn cố ý mua và tàng trữ trái phép 0,16 gam Heroine và 6,93 gam Methamphetamine với mục đích để sử dụng. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo; tuy nhiên, tại phiên tòa cũng như trong quá trình điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai báo thể hiện sự ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS nên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cần xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS năm 2015 cho bị cáo. Bị cáo không phạm tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 của BLHS năm 2015.
Bị cáo với nghề nghiệp tự do, thu nhập không ổn định, gia đình bị cáo khó khăn về kinh tế. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5] Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
Đối với người đàn ông tự giới thiệu tên là Di đã bán ma tuý cho bị cáo Nguyễn Mạnh H, do bị cáo không biết địa chỉ của người này ở đâu, Cơ quan CSĐT không có đủ cơ sở xác minh làm rõ.
Đối Lò Văn K không biết việc Nguyễn Mạnh H mang ma tuý vào nhà của gia đình nên không đặt vấn đề xử lý.
Đối với Lò Văn Lò Văn P qua xác minh không rõ hiện Lò Văn P đang ở đâu. Lời khai của bị cáo Nguyễn Mạnh H trình bày mượn xe mô tô của Lò Văn P bị cáo không nói cho Lò Văn P biết mục đích bị cáo mượn xe mô tô để đi mua ma tuý nên không đặt vấn đề xem xét xử lý.
[6] Vật chứng của vụ án: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46; điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS. Hội đồng xét xử tịch thu để tiêu hủy:
- 0,05 gam Heroine, 6,3 gam Methamphetamine là vật chứng còn lại của vụ án sau khi lấy mẫu giám định.
- 01 túi zip nilon màu xanh; 04 mảnh giấy bạc màu vàng không có giá trị.
[7] Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Nguyễn Mạnh H phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.
[8] Quyết định truy tố của VKSND huyện A; ý kiến của vị đại diện VKS, ý kiến của bị cáo qua phần tranh tụng công khai tại phiên tòa về tội danh, hình phạt và các vấn đề khác liên quan đến vụ án. Hội đồng xét xử thấy phù hợp với nội dung vụ án và nhận định của Hội đồng xét xử nên cần chấp nhận.
[9] Trong quá trình điều tra, truy tố: Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng qui định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm n khoản 2 Điều 249 BLHS. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Mạnh H phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
Áp dụng điểm n khoản 2 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh H 06 (sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt (ngày 28/10/2023)
2. Vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46; điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS. Tịch thu để tiêu hủy:
- 0,05 gam Heroine, 6,3 gam Methamphetamine là vật chứng còn lại của vụ án sau khi lấy mẫu giám định.
- 01 túi zip nilon màu xanh; 04 mảnh giấy bạc màu vàng không có giá trị.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện A và Chi Cục thi hành án dân sự huyện A lập ngày 11/3/2024).
3. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Nguyễn Mạnh H phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 31/2024/HS-ST
Số hiệu: | 31/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/04/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về