TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L, TỈNH HOÀ BÌNH
BẢN ÁN 31/2022/HS-ST NGÀY 02/08/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 02/8/2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 29/2022/TLST-HS ngày 05 tháng 07 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2022/QĐXXST- HS ngày 22 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo:
Bùi Văn S, sinh ngày 06 tháng 06 năm 1968 tại xã Y, huyện L, tỉnh Hòa Bình; Nơi cư trú: xóm R, xã Y, huyện L, tỉnh Hòa Bình; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ văn hóa (học vấn): 04/12; Dân tộc: Mường; Giới tính: Nam; Quốc tịch Việt Nam; con ông: Bùi Văn C, (Đã chết) và bà Bùi Thị H (Đã chết); Bị cáo là con thứ tư trong gia đình có 05 anh chị em; Vợ: Bùi Thị R, sinh năm 1973; Con: có 01 con, sinh năm 1997; Tiền án: không, tiền sự: không;
Về nhân thân: Năm 2007 Bùi Văn S bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Quyết định số 937, ngày 30/7/2007 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện L; Năm 2011 tiếp tục bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Quyết định số 3055, ngày 15/8/2011 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện L. Ngày 7/9/2017 Bùi Văn S bị Toà án nhân dân huyện L xử phạt 20 tháng tù tại Bản án số 25/2017/HSST về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, đã chấp hành xong bản án và thuộc trường hợp đương nhiên được xoá án tích.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/4/2022. Có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Bùi Duy C, sinh năm 1997. Địa chỉ: xóm R, xã Y, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Có mặt.
- Người chứng kiến:
+ Ông Bùi Văn D, sinh năm 1967; Trú tại: xóm Nhụn, xã Y, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt.
+ Ông Quách Văn Th, sinh năm 1963; Trú tại: xóm Nhụn, xã Y, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giờ ngày 14/04/2022, Bùi Văn S (sinh năm 1968, trú tại xóm R, xã Y, huyện L, tỉnh Hoà Bình) đã điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 35H1-xxxx thuộc sở hữu hợp pháp của Bùi Duy C (sinh năm 1997, trú tại xóm R, xã Y, huyện L, tỉnh Hoà Bình, là con trai S) đi từ nhà tại xóm R, xã Y, huyện L lên huyện Tân Lạc, tỉnh Hoà Bình với mục đích tìm mua ma tuý để sử dụng. Tại huyện Tân Lạc, Bùi Văn S gặp một người đàn ông không quen biết có biểu hiện của người nghiện ma tuý nên S đã đến hỏi và mua được 01 gói ma tuý của người đàn ông đó với giá 2.000.000đ (Hai triệu đồng). Mua được ma tuý Bùi Văn S đã cất giấu ma tuý vào vị trí bên dưới yên xe, cạnh nắp bình xăng và điều khiển xe quay về nhà để ngủ. Đến khoảng 05 giờ sáng ngày 15/4/2022, khi lên cơn nghiện ma tuý Bùi Văn S đã điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 35H1-xxxx vẫn cất dấu ma tuý tại vị trí dưới yên xe, cạnh nắp bình xăng và đi vào đoạn đường thuộc xóm Trắng Đá, xã Y, huyện L, tỉnh Hòa Bình tìm nơi vắng để sử dụng thì bị Cơ quan Công an phát hiện bắt quả tang và thu giữ 01 gói nilon, bên trong có chứa chất ma tuý tại vị trí bên dưới yên xe, cạnh nắp bình xăng. Cơ quan Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ các vật chứng liên quan đối với Bùi Văn S.
Tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Bùi Văn S Cơ quan điều tra không phát hiện thu giữ đồ vật, tài liệu gì thêm.
Tại bản kết luận giám định số: 87/KLGĐ-CAT-PC09 ngày 21/4/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Hòa Bình kết luận : Chất bột dạng cục màu trắng trong phong bì niêm phong, một mặt có ghi “Vật chứng thu giữ khi bắt quả tang Bùi Văn S, sinh năm 1968” gửi giám định có khối lượng 2,85g (Hai phẩy tám mươi lăm gam), là ma tuý, loại Heroine.
* Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; xử lý vật chứng:
- 2,85 gam Heroine đã thu giữ của Bùi Văn S khi bắt quả tang;
- 01 xe mô tô nhãn hiệu HOIYDAZX, biển kiểm soát 35H1-xxxx, số khung 007111, số máy 091111, xe cũ đã qua sử dụng.
Hiện vật chứng trên được chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự huyện L bảo quản theo quy định.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa Bùi Văn S đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai hoàn toàn phù hợp với lời khai của người chứng kiến và phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.
Tại bản cáo trạng số: 30/CT-VKS ngày 05/7/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện L đã quyết định truy tố bị cáo Bùi Văn S về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Kết thúc phần xét hỏi vị đại diện Viện Kiểm sát trình bày lời luận tội. Nội dung luận tội đã phân tích tính chất, mức độ, nguyên nhân, động cơ, mục đích phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ áp dụng đối với bị cáo và khẳng định cáo trạng truy tố bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 BLHS xử phạt Bùi Văn S từ 33 đến 36 tháng tù.
Không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 BLHS đối với bị cáo do không có tính khả thi.
Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo Bùi Văn S tài liệu điều tra thể hiện trong hồ sơ vụ án chưa đủ căn cứ xác định nên đề nghị không đề cập xử lý.
Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, đề nghị:
- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ mẫu vật hoàn lại sau giám định được lưu giữ trong phong bì niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hòa Bình.
- Trả lại cho người có quyền và nghĩa vụ liên quan là anh Bùi Duy C 01 xe mô tô nhãn hiệu HOIYDAZX, biển kiểm soát 35H1-xxxx, số khung 007111, số máy 091111, xe cũ đã qua sử dụng.
Bị cáo thừa nhận cáo trạng truy tố, nội dung luận tội của Viện kiểm sát đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, không oan. Bị cáo không tranh luận gì với bản luận tội của Viện Kiểm sát. Tại lời nói sau cùng bị cáo ăn năn hối hận về việc làm của mình, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để bị cáo cải tạo trở thành người lương thiện.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện L, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau: Lời khai nhận tội của bị cáo Bùi Văn S có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa ngày hôm nay phù hợp với các chứng cứ khác như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 15/04/2022; biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, biên bản mở niêm phong vật chứng và bản kết luận giám định số 87/KLGĐ-CAT-PC09 ngày 21/4/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình; lời khai của người chứng kiến cùng các chứng cứ, tài liệu khác đã được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án nên đã có đủ cơ sở khẳng định: Hồi 05 giờ 00 phút ngày 15/4/2022, tại đoạn đường thuộc địa phận xóm Trắng Đá, xã Y, huyện L, tỉnh Hòa Bình, Tổ công tác Công an huyện L, tỉnh Hòa Bình bắt quả tang Bùi Văn S đang có hành vi tàng trữ trái phép 2,85g (Hai phẩy tám mươi lăm gam) ma túy, loại Heroine tại vị trí bên dưới yên xe, cạnh nắp bình xăng xe mô tô BKS 35H1-xxxx S đang điều khiển, mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân. Bùi Văn S là người có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý nên hành vi của Bùi Văn S phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều 249 của Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện L truy tố bị cáo Bùi Văn S về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3]. Xét tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo S đã tàng trữ 2,85 gam ma túy, loại Heroine để sử dụng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến những qui định của Nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma tuý, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy gây nghiện làm hại cho sức khỏe, bị cáo nhận thức được những quy định của Nhà nước về quản lý, sử dụng các chất ma túy, nghiêm cấm việc mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy, nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy bị cáo phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về hậu quả do hành vi của mình gây ra.
[4]. Về nhân thân: Năm 2007 Bùi Văn S bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Quyết định số 937, ngày 30/7/2007 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện L; Năm 2011 tiếp tục bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Quyết địnhsố 3055, ngày 15/8/2011 của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện L. Ngày 7/9/2017 Bùi Văn S bị Toà án nhân dân huyện L xử phạt 20 tháng tù tại Bản án số 25/2017/HSST về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, đã chấp hành xong bản án và thuộc trường hợp đương nhiên được xoá án tích.
[5]. Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Xét về nhân thân bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, sinh ra và lớn lên làm ăn tại địa phương, bị cáo không chịu tu dưỡng đạo đức, rèn luyện bản thân, để thỏa mãn nhu cầu cá nhân nên đã bất chấp pháp luật, đi vào con đường phạm tội. Tại phiên tòa cũng như trong quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn nên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.
[6]. Về mức hình phạt: HĐXX xét thấy cần phải áp dụng một hình phạt tương ứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để dăn đe giáo dục đối với bị cáo và để bị cáo có thời gian cai nghiện, dứt bỏ chất ma túy trở thành người tốt có ích cho xã hội. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo như đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa mới đủ tác dụng cải tạo bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.
[7]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định của khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng…”, do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định, đang ở cùng với gia đình, điều kiện kinh tế khó khăn, bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng cho bản thân, không nhằm mục đích kiếm lời bất chính nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.
[8]. Đối với đối tượng đã bán ma túy cho bị cáo Bùi Văn S tài liệu điều tra thể hiện trong hồ sơ vụ án chưa đủ căn cứ xác định và tại phiên tòa hôm nay bị cáo không khai báo thêm tình tiết mới. Do đó, Hội đồng xét xử không đề cập xem xét.
[9]. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy:
-Số ma túy thu giữ được của bị cáo Bùi Văn S là vật Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.
- Trả lại cho người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là anh Bùi Duy C 01 xe mô tô nhãn hiệu HOIYDAZX, biển kiểm soát 35H1-xxxx, số khung 007111, số máy 091111, xe cũ đã qua sử dụng.
[10]. Về án phí hình sự sơ thẩm: bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
[11]. Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015.
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Bùi Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Xử phạt bị cáo Bùi Văn S 33 (Ba mươi ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/4/2022.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
2. Xử lý vật chứng:
Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định đã thu giữ của bị cáo Bùi Văn S - Trả lại cho người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là anh Bùi Duy C 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 35H1-xxxx, nhãn hiệu HOIYDAZX, số khung 007111, số máy 09111.
Vật chứng nêu trên có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/7/2022 giữa Công an huyện L với Chi cục Thi hành án dân sự huyện L.
3. Án phí hình sự sơ thẩm:
Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, Nghị quyết 326/NQ-QH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội khóa 14 quy định về án phí, lệ phí tòa án. Bị cáo Bùi Văn S phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo:
Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 31/2022/HS-ST
Số hiệu: | 31/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lạc Sơn - Hoà Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 02/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về