Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 31/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 31/2021/HS-ST NGÀY 09/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 3 năm 2021 tại Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 17/2021/TLST-HS ngày 04 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2021/QĐXXST- HS ngày 22 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:

Đỗ Hữu T (Trắng), sinh năm 1982 tại Tp. HCM; nơi cư trú: Ấp P, xã P1, huyện N, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Đức L và bà Nguyễn Thị L1; chung sống như vợ chồng với Đổng Hồng N1 và có 01 con sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 28/9/2016 bị Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Đồng Nai áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 18 tháng. Đến ngày 23/10/2017 được Tòa án nhân dân huyện X miễn chấp hành phần thời gian còn lại; bị cáo bị bắt giữ từ ngày 14/10/2020 (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đỗ Hữu T là đối tượng nghiện ma túy. Vào khoảng 16 giờ ngày 14/10/2020, T đi bộ đến khu vực sân bóng 04 con ngựa thuộc ấp Đ, xã P1, huyện N, tỉnh Đồng Nai gặp 01 người đàn ông tên Nguyễn (không rõ nhân thân) mua 01 gói ma túy với giá 1.200.000 đồng. Sau đó, T đến nhà anh Nguyễn Hữu H, sinh năm 1986 ngụ tại ấp P3, xã P1, huyện N, tỉnh Đồng Nai. Tại đây, T lấy 01 ít ma túy và cùng anh H sử dụng. Đến khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, anh Nguyễn Hồng P2, sinh năm 1988, ngụ tại xã X1, huyện X, tỉnh Đồng Nai, anh Nguyễn Văn H1, sinh năm 1987, ngụ tại xã P4, huyện N, tỉnh Đồng Nai và chị Nguyễn Nhật T1, sinh năm 1993, ngụ tại xã P1, huyện N, tỉnh Đồng Nai đến nhà anh H. Lúc này, T tiếp tục lấy một ít ma túy ra rồi cùng với anh H, anh P2, anh H1, chị T1 sử dụng, số ma túy còn lại T cất giấu vào trong túi áo phía trước bên trái của T. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, Công an xã P1, huyện N tiến hành kiểm tra hành chính nhà anh H phát hiện bên trong túi áo phía trước bên trái của Đỗ Hữu T có 01 gói nylon hàn kín, kích thước 4 x 4cm bên trong có chứa các hạt tinh thể rắn màu trắng, T khai nhận là ma túy đá nên Công an xã P1, huyện N lập biên bản bắt người phạm tội quả tang về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và chuyển toàn bộ hồ sơ đến Cơ quan cảnh điều tra Công an huyện N xử lý theo thẩm quyền.

Tại Kết luận giám định số: 2444/KLGĐ-PC09 ngày 22/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai xác định 01 P2 bì niêm P2 vẫn còn nguyên vẹn, trên phòng bì có các chữ ký ghi họ tên Nguyễn Văn Thọ, Ngô Văn H1, Đỗ Hữu T và hình dấu tròn máu đỏ của Công an xã P1, huyện N, tỉnh Đồng Nai. Sau khi mở niêm P2, bên trong P2 bì có 01 gói nylon chứa tinh thể màu trắng (ký hiệu M). Kết quả giám định xác định: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm P2 gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 1,1848 gam, loại: Methamphetamine.

Tang vật thu giữ: 01 gói nylon hàn kín, kích thước 4 x 4cm, bên trong chứa các hạt tinh thể rắn màu trắng; 01 bình nhựa có gắn ống hút và nỏ thủy tinh; 01 chiếc áo màu xanh.

Tại bản cáo trạng số: 26/CT.VKS ngày 03/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh Đồng Nai truy tố bị can Đỗ Hữu T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Tvề tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị HĐXX áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; xử phạt Đỗ Hữu T từ 2 năm đến 2 năm 6 tháng tù;

Về các biện pháp tư pháp: 01 gói niêm P2 mẫu vật sau giám định số 2444/KLGĐ-PC09 ngày 22/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; bình nhựa có gắn óng hút và nỏ thủy tinh; 01 chiếc áo màu xanh là tang vật dùng vào việc phạm tội nên tịch thu tiêu hủy.

Lời nói sau cùng bị cáo xin Tòa án xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, các cơ quan và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Giai đoạn điều tra và tại phiên tòa những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo T khai nhận: Vào khoảng 16 giờ, ngày 14/10/2020, bị cáo đi bộ đến khu vực sân bóng 04 con ngựa thuộc ấp Đ, xã P1, huyện N gặp 01 người đàn ông tên Nguyễn (không rõ nhân thân) mua 01 gói ma túy với giá 1.200.000 đồng. Sau đó, bị cáo đến nhà anh Nguyễn Hữu H ở ấp P3, xã P1. Tại đây, bị cáo lấy 01 ít ma túy và cùng anh H sử dụng. Đến khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, có Nguyễn Hồng P2 Nguyễn Văn H1 và chị Nguyễn Nhật T1 đến nhà anh H. Lúc này, bị cáo tiếp tục lấy một ít ma túy ra rồi cùng với anh H, anh P2, anh H1, chị T1 sử dụng, số ma túy còn lại T cất giấu vào trong túi áo phía trước bên trái của T. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, Công an xã P1, huyện N tiến hành kiểm tra hành chính nhà anh H phát hiện bên trong túi áo phía trước bên trái của bị cáo có một gói ma túy. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo trạng, kết luận giám định và các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Đỗ Hữu T phạm tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy và làm ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương. Theo kết luận giám định số ma túy thu giữ của bị cáo là loại Methamphetamine có trọng lượng là 1,1848 gam. Mục đích bị cáo mua ma túy về để sử dụng. Bị cáo biết việc sử dụng ma túy bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vì nghiện ma túy nên vẫn cố ý thực hiện việc phạm tội, cho thấy bị cáo không có ý thức chấp hành pháp luật. Hiện nay tệ nạn này diễn ra hết sức phức tạp, lôi kéo nhiều người vào con đường nghiện ngập là nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm khác. Vì vậy, cần áp dụng mức hình phạt nghiêm mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Xét thấy bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015. Hội đồng xét xử sẽ xem xét tình tiết này cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

Đối với Nguyễn Hữu H, Nguyễn Hồng P2, Ngô Văn H1 có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện N đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là đúng quy định.

Đối với Nguyễn Nhật T1 hiện đã bị khởi tố về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và xử lý bằng một vụ án khác nên không đặt ra xử lý.

Đối với tên Nguyễn đã bán ma túy cho bị cáo do chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N tách ra tiếp tục điều tra, xác minh, làm rõ xử lý sau là phù hợp.

[5] Về các biện pháp tư pháp: 01 gói niêm P2 mẫu vật sau giám định số 2444/KLGĐ-PC09 ngày 22/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; bình nhựa có gắn ống hút và nỏ thủy tinh; 01 chiếc áo màu xanh là tang vật dùng vào việc phạm tội nên tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[7] Xét đề nghị của Viện kiểm sát về tội danh, tình tiết giảm nhẹ, xử lý vật cứng và đề nghị áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 326, 327 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tuyên bố bị cáo Đỗ Hữu T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Áp dụng điểm c khỏan 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu … sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử phạt bị cáo Đỗ Hữu T 2 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/10/2020.

Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm P2 mẫu vật sau giám định số 2444/KLGĐ- PC09 ngày 22/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; bình nhựa có gắn óng hút, nỏ thủy tinh và 01 chiếc áo màu xanh.

Tang vật hiện Cơ quan Thi hành án dân sự huyện N đang tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/02/2021.

Bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền làm đơn kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

139
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 31/2021/HS-ST

Số hiệu:31/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhơn Trạch - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về