Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 311/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH NAM ĐỊNH 

BẢN ÁN 311/2023/HS-ST NGÀY 08/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 12 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 294/2023/TLST-HS ngày 21 tháng 11 năm 2023. theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 294/2023/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn T, sinh ngày 09 tháng 3 năm 1988; nơi sinh: tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Thôn đường 10, xã M, huyện M, tỉnh Nam Định; số căn cước công dân: 03X8001099; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; con ông Nguyễn Văn C và bà Nguyễn Thị H; có vợ là Vũ Thị H và 02 con; tiền án; tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 31-8-2023, chuyển tạm giam từ ngày 09-9-2023 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố N. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

Anh Đào Văn K

Anh Nguyễn Phước T

(Không triệu tập đến phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 31-8-2023, tổ công tác Công an xã N, thành phố N làm nhiệm vụ tại khu vực lối rẽ đường ven sông Đ, hướng ra đường L, thuộc thôn V, xã N, thành phố N phát hiện Nguyễn Văn T điều khiển xe máy biển kiểm soát 18F3- X có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra, T tự giác giao nộp từ tay trái 02 gói giấy bạc màu trắng, bên trong đều chứa chất bột dạng cục màu trắng (T khai là 02 Heroine mua về để sử dụng). Tổ công tác đã thu giữ, niêm phong vật chứng và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Văn T. Ngoài ra còn tạm giữ của T 01 chiếc xe máy biển kiểm soát 18F3-X, đã cũ.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N đã ra quyết định trưng cầu giám định vật chứng thu giữ của Nguyễn Văn T: Bản kết luận giám định số 1361/KL-KTHS ngày 06-9-2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 02 gói giấy bạc màu trắng, thu giữ của Nguyễn Văn T được niêm phong gửi giám định đều là ma túy. Loại ma túy: Heroine (Heroin). Tổng khối lượng mẫu: 0,222 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn T khai nhận: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 31-8-2023, T điều khiển xe máy biển kiểm soát 18F3-X đi từ nhà đến một ngõ trên khu vực đền C, xã N, thành phố N, rẽ vào một ngõ (không nhớ số ngõ), gặp một người đàn ông (không rõ lai lịch, địa chỉ) mua 02 gói Heroine với giá 100.000 đồng, T cầm 02 gói Heroine mua được trong tay trái, rồi điều khiển xe đi tìm chỗ sử dụng thì bị phát hiện, bắt giữ.

Chiếc xe máy biển kiểm soát 18F3-X là tài sản của anh Nguyễn Ngọc T (em vợ Nguyễn Văn T). Anh T không biết T mượn xe đi mua ma túy sử dụng, nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố N đã trả lại xe cho anh T.

Bản cáo trạng số 313/CT-VKSND-TPNĐ ngày 21-11-2023 Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố Nguyễn Văn T tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn T đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng cho bản thân như bản cáo trạng đã nêu.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội danh, điều luật như bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Về hình phạt chính: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù đến 02 (hai) năm tù.

- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Nguyễn Văn T.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy đã thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn T.

- Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Văn T nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn T không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về tội danh:

Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Văn T trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa hôm nay phù hợp với các chứng cứ khác như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 31-8-2023; Biên bản thu giữ vật chứng ngày 31-8-2023; Bản kết luận giám định số 1361/KL-KTHS ngày 06-9-2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định; lời khai của những người làm chứng cùng các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án nên đã có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 12 giờ ngày 31-8-2023, tại khu vực lối rẽ thuộc đường ven sông Đ, hướng ra đường L, thuộc thôn V, xã N, thành phố N, tỉnh Nam Định, Nguyễn Văn T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,222 gam Heroine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn T là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện; khối lượng Heroine bị cáo tàng trữ mục đích để sử dụng là 0,222 gam. Vì vậy bị cáo Nguyễn Văn T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì bị cáo Nguyễn Văn T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình nên bị cáo sẽ được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nguyễn Văn T không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. [4] Về hình phạt:

Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn T là nghiêm trọng, gây ảnh hưởng xấu đối với an ninh trật tự trên địa bàn thành phố N nên cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn trong khung đã truy tố, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung:

Xét thấy bị cáo Nguyễn Văn T không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử sẽ không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Đối với đối tượng đã bán ma tuý cho bị cáo Nguyễn Văn T: Hiện tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ kết luận nên Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố N tách ra để tiếp tục điều tra, xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.

[7] Đối với chiếc xe máy biển kiểm soát 18F3-X là tài sản của anh Nguyễn Ngọc T (em vợ Nguyễn Văn T). Anh T không biết T mượn xe đi mua ma túy sử dụng, nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố N đã trả lại xe cho anh T là đúng quy định của pháp luật.

[8] Về xử lý vật chứng:

Số ma túy thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn T là vật cấm lưu hành nên sẽ tịch thu tiêu hủy.

[9] Về án phí:

Bị cáo Nguyễn Văn T bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 01(một) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 31-8-2023.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy gói ma túy đã thu giữ trong phong bì niêm phong số 1361/KL-KTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23-11-2023).

3. Án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015;

Căn cứ Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội:

Bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo:

Bị cáo Nguyễn Văn T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định Điều 2 Luật thi hành án dân sự: Bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 9 của Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 311/2023/HS-ST

Số hiệu:311/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về