Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 302/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA – TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 302/2023/HS-ST NGÀY 27/06/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 280/2023/TLST-HS ngày 19 tháng 5 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 310/2023/QĐXXST-HS, ngày 13/6/2023, đối với:

Bị cáo: Đặng Văn T, sinh năm 1996 tại Đồng Nai. Nơi cư trú: 62/14, khu phố H, phường TH, thành phố H, tỉnh Đồng Nai. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: 9/12. Dân tộc: Kinh. Giới tính: Nam. Tôn giáo: Thiên Chúa. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Đặng Văn TH, sinh năm 1967 và bà Nguyễn Thị Thùy L, sinh năm 1966. Bị cáo chưa có vợ con. Tiền án, tiện sự: Không. Bị cáo đang bị giam giữ tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa. Bị cáo có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đặng Văn T là người sử dụng trái phép chất ma túy. Từ ngày 04/11/2022 đến ngày 06/11/2022 tại khu phố 3, phường Tam Hòa, thành phố Biên Hòa, T đã thực hiện hành vi “Vận chuyển trái phép chất ma túy” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Đặng Văn T và đối tượng H (chưa rõ lai lịch) có mối quan hệ bạn bè. Ngày 03/11/2022, H sử dụng mạng xã hội Zalo tên “Phạm Hiếu” gọi cho T để nhờ T mua 01 gói ma túy tổng hợp (hàng đá) với số tiền 2.500.000 đồng và chuyển đến cho Hiếu, H hứa cho T một phần ma túy để sử dụng, T đồng ý. Sau đó H chuyển số tiền 2.500.000 đồng cho T vào tài khoản ngân hàng số 03X53414 của T.

Khoảng 06 giờ 30 phút ngày 04/11/2022, T đi xe buýt đến khu vực cầu Sài Gòn thuộc quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh mua của đối tượng tên Q (không rõ nhân thân lai lịch) 03 gói ma túy tổng hợp (hàng đá) với giá 2.500.000 đồng. Sau khi mua ma túy, T mang về nhà tại địa chỉ 62/14, khu phố 2, phường Tam Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai lấy một phần ma túy trong 01 gói ra rồi sử dụng hết. Sau đó T cất giấu 03 gói ma túy tổng hợp vào 01 bao da đựng súng màu đen (bao da đựng súng đồ chơi của trẻ em) rồi bỏ vào hộp giấy Catton để chuyển cho Hiếu.

Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, T mang theo hộp Catton chứa ma túy nêu trên, điều khiển xe mô tô biển số 39F2-X đến nhà xe Tân Niên tại địa chỉ khu phố 3, phường Tam Hòa, thành phố Biên Hòa để gửi đến xã Nhân Cơ, huyện Đăk Rlấp, tỉnh Đắk Nông cho Phạm Anh H. Sau khi nhận gói hàng thì chị Nguyễn Mộng Thùy L (là nhân viên của nhà xe Tân Niên) nghi ngờ bên trong gói hàng T gửi có ma túy, nên chị L trình báo đến Công an phường Tam Hòa. Tại Cơ quan điều tra Đặng Văn T đã khai nhận hành vi phạm tội như trên.

Vật chứng thu giữ: 01 hộp giấy catton, kích thước 20cm x 40cm x 05cm; 01 bao da súng màu đen; 03 gói nylon (túi Zip) kích thước 04cm x04cm chứa chất màu trắng đã được niêm phong có chữ ký của Nguyễn Thanh Tuấn, Nguyễn Mộng Thùy L và dấu mộc của Công an phường Tam Hòa; 01 USB và biên bản kiểm tra Camera ghi nhận hình ảnh Đặng Văn T đến nhà xe Tân Niên giửi gói hàng có chứa ma túy ngày 04/11/2022 Kết luận giám định số 2460/KL-KTHS ngày 23/11/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai đã kết luận: mẫu chất màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, khối lượng 7,4984 gam, loại Methamphetamine.

Vụ thứ hai: Khoảng 06 giờ ngày 06/11/2022, T đến khu vực cầu Sài Gòn thuộc quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh mua của Q (không rõ nhân thân lai lịch) 02 gói ma túy tổng hợp (hàng đá) với giá 1.200.000 đồng, mục đích để sử dụng. Sau khi mua ma túy, T cất giấu vào ví da rồi bỏ vào túi quần phía sau bên trái.

Đến khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, T đem theo gói ma túy nêu trên đến nhà xe Tân Niên để hỏi về việc vận chuyển gói hàng T gửi ngày 04/11/2022 thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa bắt quả tang. Tại Cơ quan điều tra Đặng Văn T đã khai nhận hành vi phạm tội như trên.

Vật chứng thu giữ: 02 gói nylon bên trong có chứa chất màu trắng, đã được niêm phong có chữ ký của Đặng Văn T và dấu mộc của Công an phường Tam Hòa; 01 điện thoại di động hiệu Nokia số Imei, 351876022660648, số sim 03X53414; 01 xe mô tô hiệu Hayate, biển số 39F2-X; 01 Cân tiểu ly và 20 túi nilon loại Zipper.

T khai xe mô tô hiệu Hayate, biển số 39F2-X T khai mượn của anh Danh (không rõ họ tên, địa chỉ). Qua xác minh: Xe mô tô biển số 39F2-X do chị Phạm Thị Nhinh, ngụ tại 235A/37, khu phố 2, phường Tân Tiến, thành phố Biên Hòa đăng ký sở hữu. Xác minh tại địa chỉ trên, không có thông tin chị Phạm Thị Nhinh đăng ký thường trú. Do chưa làm rõ được nguồn gốc xe và chủ sở hữu nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tách xe mô tô trên tiếp tục xác minh, xử lý sau.

Kết luận giám định số 2357/KL-KTHS ngày 10/11/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai đã kết luận: Mẫu chất màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, khối lượng 2,1631 gam, loại Methamphetamine.

Tại Cáo trạng số 287/CT-KSVBH, ngày 16/5/2023, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa truy tố bị cáo Đặng Văn T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 và tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 2 Điều 250 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, nêu tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đặng Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 2 Điều 250; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 01 (một) năm 08 (tám) tháng đến 02 (hai) năm tù về tội về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, 07 (bảy) năm đến 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì đối với lời luận tội của đại diện Viện Kiểm sát.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo đã nhận thức rõ về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt mức thấp nhất cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng:

Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về hành vi thực hiện tội phạm của bị cáo:

Xét thấy, lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 19 giờ ngày 04/11/2022 tại khu phố 3, phường Tam Hòa, thành phố Biên Hòa, Đặng Văn T đã có hành vi đem 03 gói ma túy có khối lượng 7,4984 gam, loại Methamphetamine do đối tượng tên H (chưa rõ lai lịch) nhờ mua với số tiển 2.500.000 (hai triệu năm trăm nghìn) đồng gói trong hộp Catton gửi tại nhà xe Tân Niên để chuyển giao cho đối tượng Phạm Anh H (chưa rõ nhân thân lai lịch).

Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 06/11/2022 tại khu phố 3, phường Tam Hòa, thành phố Biên Hòa, Đặng Văn T có hành vi tàng trữ trái phép 02 gói ma túy có khối lượng 2,1631 gam, loại Methamphetamine, thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa phát hiện bắt quả tang.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tệ nạn và tội phạm khác, đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 2 Điều 250 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu, nhân thân tốt, là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Bị cáo 02 lần thực hiện hành vi phạm tội, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo, thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật, tạo điều kiện để bị cáo cải tạo trở thành công dân sống có ích cho xã hội.

[4] Về quyết định hình phạt:

Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi thực hiện tội phạm của bị cáo; căn cứ vào nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cần có mức án nghiêm, tương xứng với tính chất và hành vi phạm tội của bị cáo, cần thiết phải cách ly bị cáo với xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung. Bị cáo bị xét xử cùng 01 lần về nhiều tội, Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội và tổng hợp hình phạt theo quy định pháp luật.

[5] Vật chứng của vụ án:

- Tịch thu tiêu hủy: Toàn bộ lượng ma tuý còn lại sau khi giám định; 01 hộp giấy catton, kích thước 20cm x 40cm x 05cm; 01 bao dao súng màu đen, 01 cân tiểu ly, 20 túi nilon loại Zipper do không còn giá trị sử dụng.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Nokia số Imei 351876022660648 do T sử dụng vào việc phạm tội.

[6] Về các vấn đề khác liên quan đến vụ án:

Đối với đối tượng tên Phạm Anh H (chưa rõ nhân thân lai lịch), T khai H sử dụng số điện thoại 096X8846 để liên lạc và chuyển số tiền 2.500.000 đồng cho T qua tài khoản ngân hàng số 03633X414 của Ngân hàng Á Châu (ACB). Cơ quan điều tra có công văn đề nghị Ngân hàng Á Châu cung cấp lịch sử giao dịch đối với tài khoản trên nhưng chưa có kết quả trả lời. Tập đoàn bưu chính viễn thông Việt Nam cung cấp thông tin chủ thuê bao điện thoại số 096X8846 là của khách hàng Phạm Anh H, sinh ngày 01/6/1994, ngụ tại 244B, khu phố 2, phường Tam Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, qua xác minh Phạm Anh H không còn lưu trú tại địa chỉ trên. Do chưa rõ lai lịch của Hiếu, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tiếp tục xác minh, xử lý sau.

Đối với đối tượng Q (chưa rõ lai lịch) có hành vi mua bán trái phép chất ma túy cho T, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Do chưa làm rõ được nguồn gốc xe và chủ sở hữu xe mô tô hiệu Hayate, biển số 39F2-X nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tiếp tục xác minh, xử lý sau.

[7] Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải nộp.

[8] Quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 2 Điều 250; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 55 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Đặng Văn T: 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt của hai tội, buộc bị cáo Đặng Văn T phải chấp hành hình phạt chung là 09 (chín) năm tù. Thời hạn phạt tù tính từ ngày giam giữ 06/11/2022.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: Toàn bộ lượng ma tuý còn lại sau khi giám định đựng trong 02 gói niêm phong gồm 01 gói niêm phong số 2357 ngày 14/11/2022 và 01 gói niêm phong số 2460 ngày 23/11/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai; 01 hộp giấy catton, kích thước 20cm x 40cm x 05cm; 01 bao dao súng màu đen, 01 cân tiểu ly điện tử đã qua sử dụng, 20 túi nilon loại Zipper do không còn giá trị sử dụng.

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Nokia số Imei 351876022660648 đã qua sử dụng do Đặng Văn T sử dụng vào việc phạm tội.

(Theo biên bản giao nhật vật chứng, tài sản ngày 22/6/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự Biên Hòa).

- Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Đặng Văn T phải nộp số tiền 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

- Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

111
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 302/2023/HS-ST

Số hiệu:302/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:27/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về