Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 30/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẤT ĐỎ, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 30/2022/HS-ST NGÀY 12/08/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 8 năm 2022; tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 29/2022/TLST-HS ngày 22 tháng 7 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2022/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo:

Trần Văn T (C), sinh năm: 1990 tại tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Ấp P, xã T, huyện L, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu; nghề nghiệp: Thợ sơn nước; trình độ văn hóa: Không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam, CMND: 273682519; con ông Trần Văn T, sinh năm: 1957 (Đã chết) và bà Nguyễn Thị O, sinh năm: 1962; Gia đình bị cáo có 04 anh chị em; bị cáo là con thứ hai trong gia đình; bị cáo sống như vợ chồng với Nguyễn Thị Kim N sinh năm 2000, bị cáo có 01 con sinh năm 2013.

Tiền sự: Không.

Tiền án: Có 01 tiền án. Ngày 11/5/2018, bị Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu xử phạt 05 năm tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Chấp hành xong án phạt tù ngày 28/01/2022.

Nhân thân:

- Ngày 08/10/2009, bị Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục 27 tháng về hành vi trộm cắp tài sản. Chấp hành xong ngày 15/6/2011.

- Ngày 11/3/2016, bị Ủy ban nhân dân phường Rạch Dừa, thành phố Vũng Tàu ra Quyết định giao cho Trung tâm tiếp nhận và quản lý người bị đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời gian làm thủ tục đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, sau đó Trần Văn T bỏ trốn.

Ngày 19/7/2016, Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu ra Quyết định đình chỉ việc chấp hành biện pháp xử lý hành chính đối với T.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 26/4/2022, chuyển tạm giam ngày 05/5/2022 (Có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo Trần Văn T: Ông Nguyễn Bá Đ-Luật sư thuộc Đoàn luật sư tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu (Có mặt).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Nguyễn Thị O, sinh năm 1962, địa chỉ: Ấp P, xã T, huyện L, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 13 giờ 30 phút, ngày 26/4/2022, Đồn Biên phòng Phước Hải thuộc Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu phối hợp với Công an thị trấn Phước Hải, kiểm tra hành chính trên tuyến đường Nguyễn Văn Linh đoạn thuộc khu phố Hải Sơn, thị trấn Phước Hải, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu, phát hiện Trần Văn T (tên gọi khác: C, sinh năm: 1990; trú ấp P, xã T, huyện L, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu ) đang điều khiển xe mô tô biển số 72H9-7907, có biểu hiện nghi vấn nên Công an đã yêu cầu T dừng xe kiểm tra, bắt quả tang T đang cất giấu trong túi quần bên trái phía trước 01 gói nylon màu trắng, bên trong chứa chất kết tinh không màu, trong suốt (T khai nhận là ma tuý đá) T mua về để sử dụng nên lực lượng Công an đã lập biên bản.

Tài liệu, đồ vật thu giữ: 01 gói nylon hàn kín, bên trong chứa chất kết tinh không màu, trong suốt; 01 xe mô tô biển số 72H9-7907 cùng 01 giấy đăng ký xe số 0074796; 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu tím và 01 ống thủy tinh hình phễu (BL 34).

Tại Cơ quan điều tra, T khai nhận: Do có nhu cầu sử dụng ma tuý nên vào khoảng 09 giờ 30 phút ngày 26/4/2022, T dùng điện thoại Nokia gọi điện thoại cho một người đàn ông tên Mạnh (chưa xác định được nhân thân lai lịch) để hỏi mua ma túy, Mạnh đồng ý bán. T bán điện thoại Nokia cho một người đàn ông (không biết họ tên, địa chỉ) được số tiền 600.000 đồng, rồi T đi xe ôm đến bùng binh Mũi Tàu thuộc thị trấn Long Hải, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu, đến nơi T đi bộ vào một con hẻm gặp Mạnh lấy 01 gói ma tuý với số tiền 500.000 đồng. T cất giấu 01 gói ma túy trong túi quần phía trước bên trái rồi đi xe ôm về lại nhà mình, T trả tiền xe ôm 100.000 đồng. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, T điều khiển xe mô tô biển số 72H9-7907 chạy qua thị trấn Phước Hải, huyện Đất Đỏ đi công việc, trên đường về khi qua đoạn Nguyễn Văn Linh thuộc khu phố Hải Sơn, thị trấn Phước Hải, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu thì bị lực lượng Đồn Biên phòng Phước Hải thuộc Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu phối hợp với Công an thị trấn Phước Hải bắt quả tang và thu giữ tang vật như đã nêu trên. (BL 17, 18, 39 đến 50).

Tại Bản kết luận giám định số 184/KLGĐ-KTHS-MT ngày 29/4/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu kết luận: “Mẫu chất kết tinh không màu, trong suốt chứa trong 01 gói nylon hàn kín được niêm phong trong một phong bì màu trắng, có hình dấu của Đồn Biên phòng Phước Hải, Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu và 02 hình dấu vây tay màu đỏ ghi “trỏ trái, trỏ phải - Trần Văn T”, cùng các chữ ký ghi họ tên: Thượng tá Nguyễn Ngọc D, Trương Văn H, Lê Văn T, Nguyễn Phương L, Nguyễn Hữu D, Nguyễn Bá C, gửi đến giám định có khối lượng là 0,8772 gam, là ma túy, loại Methamphetamine”. (BL 40).

Methamphetamine là chất ma túy không được sử dụng quy định tại danh mục số II Nghị định số: 73/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ (Số thứ tự: 323) quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất.

* Xử lý tài sản, tang vật của vụ án:

Đối với 01 xe mô tô biển số 72H9-7907 và 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu tím là tài sản hợp pháp của bà Nguyễn Thị O (sinh năm: 1967 – là mẹ của T). Ngày 26/4/2022, T lấy xe 72H9-7907 và điện thoại Oppo của bà O để đi công việc, sau đó T bị bắt, bà O không biết sự việc T mua ma túy. Ngày 13/7/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đất Đỏ trả lại xe, giấy chứng nhận đăng ký xe và điện thoại cho bà O. (BL 42 đến 46, 74 đến 76).

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đất Đỏ đã chuyển 01 phong bì màu trắng số 184 ngày 29/4/2022 (ma túy đã được sử dụng hết trong quá trình giám định) được niêm phong có chữ ký của Giám định viên: Võ Thanh Hoài; Thượng tá Đỗ Xuân Hoàn - Trưởng phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu có đóng dấu giáp lai và 01 ống thủy tinh hình phễu đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đất Đỏ để lưu giữ chờ xử lý.

Trần Văn T đang có tiền án mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội nên có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm. Trong quá trình điều tra, T đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình.

Tại bản Cáo trạng số 31/CT-VKSĐĐ ngày 21/7/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đất Đỏ đã truy tố bị cáo Trần Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố sau khi tranh luận vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h, khoản 1 Điều 52; Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015 đề nghị xử phạt bị cáo Trần Văn T từ 18 đến 24 tháng tù. Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) phong bì màu trắng số 184 ngày 29/4/2022 (Ma túy đã được sử dụng hết trong quá trình giám định) được niêm phong có chữ ký của Giám định viên: Võ Thanh H; Thượng tá Đỗ Xuân H - Trưởng phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu có đóng dấu giáp lai. Có chữ ký Trương Văn H, Lê Văn T, Nguyễn Phương L; tịch thu tiêu hủy 01 (Một) ống thủy tinh hình phễu (đã qua sử dụng).

Tại phiên tòa, người bào chữa cho bị cáo luật sư Nguyễn Bá Đức trình bày: Luật sư đồng ý về tội danh mà Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo là tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì bị cáo có con nhỏ, cần sự giúp đỡ để nuôi con nhỏ, bị cáo không biết chữ nên nhận thức pháp luật còn hạn chế, bị cáo trước khi bị tạm giam thì sống cùng mẹ, mẹ bị cáo hiện đang bệnh, rất cần bị cáo sớm trở về để lo cho mẹ, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự và xử phạt bị cáo mức án 12 tháng tù.

Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố; không tranh luận, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra huyện Đất Đỏ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đất Đỏ trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với chính lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Vào lúc 13 giờ 30 phút ngày 26/4/2022, trên tuyến đường Nguyễn Văn Linh đoạn thuộc khu phố Hải Sơn, thị trấn Phước Hải, huyện Đất đỏ, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu, Trần Văn T có hành vi tàng trữ trái phép 0,8772 gam ma túy, loại Methaphetamine nhằm mục đích để sử dụng thì bị Đồn Biên phòng Phước Hải thuộc Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu phối hợp với Công an thị trấn Phước Hải bắt quả tang. Hành vi của bị cáo Trần Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Xét thấy, hành vi của bị cáo xâm phạm quyền quản lý của nhà nước đối với chất gây nghiện, tác động xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo đã bị kết án chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên bị cáo là thuộc trường hợp tái phạm theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Vì vậy, cần tuyên một mức án tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo để giáo dục riêng, đồng thời bảo đảm phòng ngừa tội phạm chung. Đối với ý kiến của luật sư Nguyễn Bá Đức người bào chữa cho bị cáo, HĐXX thấy rằng bị cáo có con nhỏ và mẹ già cần bị cáo phải nuôi dưỡng, chăm sóc nhưng luật sư không cung cấp được giấy tờ chứng minh nên HĐXX không áp dụng khoản 2, Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, xét thấy trong quá trình điều tra, xét xử vụ án, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên xem xét áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự giảm nhẹ một phần mức hình phạt cho bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng:

Ngày 13/7/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đất Đỏ đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại với 01 xe mô tô biển số 72H9-7907, giấy chứng nhận xe và 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu tím cho bà Nguyễn Thị O là đúng quy định pháp luật.

[5] Đối với người tên Mạnh (chưa rõ nhân thân, lai lịch - đã bán ma túy cho T), Cơ quan điều tra Công an huyện Đất Đỏ tiếp tục xác minh, điều tra xử lý theo quy định.

[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn T (C) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, diểm h, khoản 1 Điều 52; Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt:

Trần Văn T (Cò) 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ ngày 26/4/2022.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) phong bì màu trắng số 184 ngày 29/4/2022 (Ma túy đã được sử dụng hết trong quá trình giám định) được niêm phong có chữ ký của Giám định viên: Võ Thanh H; Thượng tá Đỗ Xuân H - Trưởng phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu có đóng dấu giáp lai. Có chữ ký Trương Văn H, Lê Văn T, Nguyễn Phương L;

- Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) ống thủy tinh hình phễu (đã qua sử dụng).

(Vật chứng đang được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đất Đỏ theo biên bản giao nhận vật chứng số 39/BB ngày 21/7/2022).

Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Trần Văn T phải nộp 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều: 331, 333, 336 và Điều 337 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo và Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp có quyền kháng nghị bản án trong thời hạn 15 ngày, Viện kiểm sát nhân dân cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 12/8/2022); đương sự không có mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưởng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

155
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 30/2022/HS-ST

Số hiệu:30/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đất Đỏ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về