Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 296/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TH, TỈNH TH

BẢN ÁN 296/2021/HSST NGÀY 08/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 7 năm 2021 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố TH, tỉnh TH xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 307/2021/TLST-HS ngày 04 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 317/2021/QĐXXST- HS ngày 23 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

Lương Xuân C, tên gọi khác: Không; Sinh năm 1989 tại TH; Nơi cư trú: Tổ dân phố Đ, phường Đ, thành phố TH, tỉnh TH; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Không; Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; Con ông Lương Văn Q và con bà Nguyễn Thị Kim T (đều đã chết); Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: Không;

Tiền sự: 02.

+ Tại Quyết định số 0022184/QĐ –XPHC ngày 18/01/2018 Công an thành phố TH xử phạt 500.000đ về hành vi “Đánh bạc”. Bị cáo chưa nộp phạt.

+ Tại Quyết định số 0060956/QĐ –XPHC ngày 31/7/2020 Công an thành phố TH xử phạt 2.500.000đ về hành vi “Xâm hại đến sức khỏe người khác”.

Nhân thân: 03.

+ Tại bản án số 131/2007/HSST ngày 20/7/2007 của Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H xử phạt 54 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/9/2010.

+ Tại bản án số 217/2013/HSST ngày 13/6/2013 của Tòa án nhân dân thành phố TH xử phạt 04 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo chấp hành xong năm 2016.

+ Tại Quyết định số 0013816/QĐ –XPHC ngày 29/5/2018 Công an thành phố TH xử phạt 200.000đ về hành vi “Gây rối trật tự khu dân cư”.

Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh TH. Bị cáo bị bắt từ ngày 25/02/2021cho đến nay (Có mặt tại phiên tòa) * Người làm chứng: Anh Lưu Văn T, sinh năm 1996 – Trú tại xóm D, xã K, huyện Đ, tỉnh TH (Vắng mặt) * Người chứng kiến:

1. Ông Nguyễn Văn T1, sinh năm 1973 - Trú tại tổ X, phường H, thành phố TH, tỉnh TH (Vắng mặt)

2. Ông Hà Việt D, sinh năm 1962 - Trú tại tổ X, phường H thành phố TH, tỉnh TH (Vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 00 giờ 20 phút ngày 25/02/2021, tổ công tác của đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố TH làm nhiệm vụ tuần tra tại khu vực chung cư TECCO thuộc tổ Y, phường H phát hiện thấy một xe TAXI của hãng Bình An mang biển kiểm soát 20A -415.xx đang dừng đỗ ở rìa đường có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy nên đã yêu cầu kiểm tra. Lúc này trên xe có 02 nam thanh niên, trong đó người ngồi ghế lái xe khai họ tên là Lưu Văn T (sinh năm 1996 –trú tại xóm D, xã K, huyện Đ, tỉnh TH), còn nam thanh niên ngồi hàng ghế sau khai họ tên Lương Xuân C. Quá trình kiểm tra đối với C, tổ công tác phát hiện và thu giữ tại túi quần phía trước bên trái C đang mặc có 01(một) túi nilon màu trắng bên trong chứa chất tinh thể dạng bột màu trắng, 01(một) túi nilon màu trắng bên trong có 04 (bốn) viên nén màu xanh dương và các mảnh chất bột màu xanh dương, C khai là ma túy tổng hợp dạng “ke” và “kẹo” mua về để sử dụng cho bản thân. Tiến hành kiểm tra đối với Lưu Văn T và xe ôtô BKS 20A -415.xx không phát hiện và thu giữ đồ vật gì. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với C, thu giữ và niêm phong vật chứng theo quy định. Ngoài ra còn tạm giữ 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen của C và 01 (một) xe TAXI màu vàng ghi, nhãn hiệu TOYOTA Vios, BKS 20A -415.xx Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TH tiến hành mở niêm phong cân xác định: Số chất tinh thể dạng bột màu trắng thu giữ của C có khối lượng là 0,915 gam, sau đó lấy toàn bộ số chất tinh thể dạng bột màu trắng trên cho vào một bì niêm phong ký hiệu C1 gửi giám định. Số viên nén và các mảnh chất bột màu xanh dương có khối lượng 2,097 gam, sau đó lấy toàn bộ số viên nén và các mảnh chất bột màu xanh dương trên cho vào một bì niêm phong ký hiệu C2 gửi giám định.

Tại bản Kết luận giám định số 528/KL - KTHS ngày 05/3/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TH kết luận:

+ Mẫu chất tinh thể dạng bột màu trắng trong phong bì ký hiệu C1 gửi giám định là chất ma túy, loại Ketamine, khối lượng là 0,915 gam.

+ Mẫu viên nén và các mảnh chất bột màu xanh dương trong phong bì ký hiệu C2 gửi giám định là chất ma túy, loại MDMA, có khối lượng 2,097gam.

Tại cơ quan điều tra, Lương Xuân C khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ.

Vật chứng của vụ án:

+ 02 (hai) bì niêm phong ký hiệu C1, C2 (Bì niêm phong chứa chất ma túy) + 01(một) xe TAXI màu vàng ghi, nhãn hiệu TOYOTA Vios, BKS 20A - 415.xx. Quá trình điều tra xác định chiếc xe trên thuộc quyền sở hữu hợp pháp của anh Ngô Văn T2 (sinh năm 2000 – trú tại xóm Đ, xã K, huyện Đ, tỉnh TH). Anh Thạo cho anh Lưu Văn T thuê chiếc xe trên để làm phương tiện chạy dịch vụ TAXI. Anh T2 và anh T đều không biết việc Lương Xuân C có tàng trữ trái phép chất ma túy trong người. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TH đã ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại chiếc xe trên cho anh Ngô Văn T2 tiếp tục quản lý và sử dụng.

+ 01(một) bì niêm phong ký hiệu B1 bên trong chứa 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen của Lương Xuân C.

Cáo trạng số 311/CT-VKSTPTN ngày 31/5/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH truy tố bị cáo Lương Xuân C về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Lương Xuân C khai nhận: Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 24/02/2021, C đi bộ từ chợ Đ, thành phố TH đến khu vực phía sau Trung tâm thương mại Vincom thuộc phường Q để tìm mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Khi đến nơi, C gặp và mua của một nam thanh niên không quen biết 01(một) túi nilon màu trắng bên trong chứa chất tinh thể dạng bột màu trắng và 01(một) túi nilon màu trắng bên trong chứa 04 (bốn) viên nén màu xanh dương cùng các mảnh chất bột màu xanh dương với giá 1.000.000đ, đó là ma túy “ke” và “kẹo”. Mua xong C cất số ma túy vào trong túi quần bò phía trước bên trái đang mặc rồi bắt xe TAXI BKS 20A – 415.xx của anh Lưu Thanh T để đi tìm nơi sử dụng. Khi gọi TAXI và lúc ở trên xe C không nói cho anh T biết việc C cất giấu ma túy trong người. Khi C đi xe TAXI đến khu chung cư Tecco thuộc phường H, thành phố TH thì bị Công an thành phố TH phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng.

Trong phần luận tội, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, xem xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã kết luận giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Lương Xuân C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử:

* Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS: Xử phạt Lương Xuân C từ 36 đến 42 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

* Về vật chứng của vụ án:

+ Tịch thu tiêu hủy: 02 (hai) bì niêm phong ký hiệu C1, C2 + Tạm giữ 01 (một) bì niêm phong ký hiệu B1 bên trong chứa 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, vỏ màu đen của bị cáo để đảm bảo thi hành án.

* Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Bị cáo không tranh luận, thừa nhận việc truy tố và xét xử bị cáo về tội danh và điều luật như bản cáo trạng truy tố là không oan, đúng người, đúng tội.

Lời nói sau cùng bị cáo xin được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện trong vụ án đều hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng truy tố. Căn cứ vào lời khai của bị cáo, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định cùng các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được trong quá trình điều tra vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Hồi 00 giờ 20 phút ngày 25/02/2021, tại khu vực chung cư Tecco thuộc tổ Y, phường H, thành phố TH, Lương Xuân C đang có hành vi tàng trữ 0,915 gam Ketamine và 2,097 gam MDMA mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác Công an thành phố TH phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Hành vi của Lương Xuân C đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy", tội phạm và hình phạt quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 BLHS.

Nội dung điều luật:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a, b, c....

i, Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này” Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thành phố TH truy tố bị cáo về tội danh và điều luật viện dẫn nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma túy, mà còn phát sinh các tệ nạn xã hội khác. Bị cáo có đầy đủ nhận thức về tác hại của ma túy nhưng vẫn phạm tội.

[4] Xét về nhân thân các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Còn về nhân thân bị cáo là người nghiện ma túy, đã bị Tòa án xét xử nhiều lần, sau khi cải tạo trở về địa phương bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng bản thân mà tiếp tục có hành vi vi phạm pháp luật. Năm 2018 và năm 2020 bị cáo bị Công an thành phố TH ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Đánh bạc” và “Xâm hại đến sức khỏe người khác”. Vì vậy, xét cần phải có mức án nghiêm khắc với hành vi phạm tội của bị cáo gây ra nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, đồng thời góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung. Mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.

[5] Về hình phạt bổ sung: Tại phiên tòa xác định bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng vụ án:

+ Đối với vật chứng cấm tàng trữ, lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

+ 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA vỏ màu đen của bị cáo xác định không sử dụng vào việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo, song tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[7] Về án phí, quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[8] Về các vấn đề khác: Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, Lương Xuân C khai mua một nam giới không quen biết tại khu vực phía sau Trung tâm thương mại Vincom thuộc phường Q, thành phố TH. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch địa chỉ của người này, nên Cơ quan điều tra không có căn cứ làm rõ để xử lý.

Đối với anh Lưu Văn T là người lái xe TAXI chở C từ Trung tâm thương mại Vincom đến khu vực chung cư Tecco thuộc tổ Y, phường H, thành phố TH. Quá trình điều tra xác định T không biết việc Lương Xuân C cất giấu ma túy trên người. Cơ quan điều tra Công an thành phố TH tiếp tục điều tra làm rõ để xử lý theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự Tuyên bố: Bị cáo Lương Xuân C phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" 1. Về hình phạt: Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS: xử phạt Lương Xuân C 36 (Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/02/2021. Căn cứ vào Điều 329 BLTTHS: Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS:

+ Tịch thu tiêu hủy 01(một) bì niêm phong ký hiệu C1 bên trong chứa 0,802 gam mẫu C1 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu C1 và 01(một) bì niêm phong ký hiệu C2 bên trong chứa 1,643 gam mẫu C2 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu C2.

+ Tạm giữ 01 bì niêm phong ký hiệu B1 bên trong chứa 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA, vỏ màu đen có số Imei 1: 358567080624964, Imei 2: 358567083046967 của bị cáo để đảm bảo thi hành án.

(Tình trạng vật chứng như biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 418 ngày 31/5/2021giữa Công an thành phố TH và Chi cục thi hành án dân sự thành phố TH, tỉnh TH).

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm nộp vào ngân sách Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo, báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

141
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 296/2021/HSST

Số hiệu:296/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về