Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 29/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ LỘC, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 29/2022/HS-ST NGÀY 23/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 9 năm 2022, Tòa án nhân dân huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định mở phiên tòa trực tuyến tại hai điểm cầu:

Điểm cầu trung tâm: Tòa án nhân dân huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Điểm cầu thành phần: Trại tạm giam Công an tỉnh Nam Định.

Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 24/2022/TLST- HS ngày 12 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số:

25/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 9 năm 2022, đối với:

Bị cáo Trần Ngọc L, sinh ngày 25 tháng 7 năm 1997 tại huyện L, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: thôn T, xã M, huyên L, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Quốc K và bà Nguyễn Thị V; vợ, con: không; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ từ ngày 10 tháng 6 năm 2022 đến ngày 16 tháng 6 năm 2022 chuyển tạm giam; có mặt.

- Người làm chứng:

Ông Đinh Hữu T, vắng mặt. Ông Đặng Đình T, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 20 giờ ngày 10 tháng 6 năm 2022, bị cáo Trần Ngọc L đi bộ một mình từ nhà ra cầu K (gần đó) rồi đi xe ôm đến khu vực gần trạm thu phí M, thuộc thị trấn L, huyện L, tỉnh Nam Định. Tại đây, bị cáo L đã gặp một nam thanh niên không quen biết và hỏi mua ma túy với giá 300.000 đồng. Nam thanh niên cầm tiền và đưa cho bị cáo một túi ni lông màu trắng bên trong có chứa các hạt tinh thể dạng cục màu trắng, bị cáo cầm ma túy bỏ vào túi quần bên phải rồi đi bộ tìm xe ôm về nhà. Lúc đó, tổ công tác đội điều tra tổng hợp của Công an huyện Mỹ Lộc đang làm nhiệm vụ tại khu vực trạm thu phí BOT thuộc thị trấn L, huyện L phát hiện bị cáo đang đi bộ một mình có biểu hiện nghi vấn. Tổ công tác tiến hành kiểm tra thì bị cáo tự giác giao nộp từ bên trong túi quần bên phải một túi ni lông màu trắng bên trong có chứa các hạt tinh thể dạng cục màu trắng, bị cáo khai là ma túy mua với giá 300.000 đồng để sử dụng bản thân. Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với bị cáo và niêm phong vật chứng theo quy định.

Kết luận giám định số: 831/KL-KTHS ngày 13 tháng 6 năm 2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu rắn dạng tinh thể màu trắng trong một túi ni lông màu trắng trong phong bì thư được niêm phong gửi giám định là ma túy. Loại ma túy: Methamphetamine. Khối lượng mẫu: 0,713 gam.

Đi với người thanh niên bán ma túy, bị cáo L không biết tên tuổi, địa chỉ của người này nên cơ quan điều tra không có đủ căn cứ để điều tra, làm rõ.

Cáo trạng số: 28/CT-VKS-ML ngày 10 tháng 8 năm 2022, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định đã truy tố bị cáo Trần Ngọc L về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Ti phiên tòa, bị cáo L khai nhận việc cất giữ 0,713 gam ma túy trong người để sử dụng là vi phạm pháp luật, bản kết luận giám định về mẫu rắn dạng tinh thể màu trắng đựng trong một túi ni lông màu trắng bị Công an huyện Mỹ Lộc thu giữ là đúng. Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc giữ nguyên quan điểm truy tố như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: tuyên bố bị cáo L phạm tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”. Về trách nhiệm hình sự: căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 18 tháng đến 24 tháng tù. Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng của vụ án: căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự để tịch thu, tiêu hủy số ma túy đã thu giữ.

Bị cáo nói lời sau cùng là đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mỹ Lộc, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo L không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Đi với người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo Trần Ngọc L: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định chất ma túy, lời khai của người làm chứng cũng như toàn bộ lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra. Từ các tình tiết, chứng cứ nêu trên đủ cơ sở kết luận:

Khong 20 giờ ngày 10 tháng 6 năm 2022, tại khu vực trạm thu phí BOT thuộc thị trấn L, huyện L, tỉnh Nam Định tổ công tác đội điều tra tổng hợp Công an huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định bắt quả tang bị cáo L đang nắm giữ trái phép 0,713 gam Methamphetamine với mục đích mua về để sử dụng. Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định truy tố bị cáo L về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ.

[3] Về tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội: Tệ nạn ma túy là hiểm họa của nhân loại bị xã hội lên án và loại trừ. Việc sử dụng trái phép chất ma túy gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là xâm phạm đến khách thể được luật hình sự bảo vệ, đó là sức khỏe, tính mạng của con người trước những tác hại của ma túy và quyền quản lý độc quyền về các chất ma túy của Nhà nước.

[4] Xem xét nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo L:

Về nhân thân: Bị cáo lần đầu phạm tội.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo có thời gian 01 năm 11 tháng phục vụ trong quân đội nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Từ nhận định trên, xét thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù giam đối với bị cáo L mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, bị cáo L là người không có nghề nghiệp ổn định, mục đích tàng trữ ma túy để nhằm thỏa mãn nhu cầu cá nhân, không có mục đích mua bán kiếm lời nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Số ma túy Methamphetamine thu giữ là vật cấm tàng trữ, lưu hành. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu và tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc L phạm tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Ngọc L 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 10 tháng 6 năm 2022.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo L.

2. Về xử lý vật chứng:

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tch thu và tiêu hủy số ma túy đã thu giữ đựng trong phong bì thư dán kín. (Theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 11 tháng 8 năm 2022, giữa Công an huyện Mỹ Lộc và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Lộc).

3. Về án phí:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Trần Ngọc L phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

4. Về quyền kháng cáo:

Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo Trần Ngọc L có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án quy định tại Điều 7 và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

155
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 29/2022/HS-ST

Số hiệu:29/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Lộc - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về