Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 29/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN MÔ, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 29/2022/HS-ST NGÀY 12/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 26/2022/TLST-HS ngày 21 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2022/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

Trần Đức V - Sinh ngày 20 tháng 02 năm 1997 tại: huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình; nơi cư trú: thôn Y, xã K, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Đức S và con bà Nguyễn Thị H; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không;

Bị cáo bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, tạm giữ từ ngày 28/5/2022 đến ngày 02/6/2022 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình theo Lệnh tạm giam số 12/LTG-CQĐT ngày 02/6/2022 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Mô (có mặt).

- Người tham gia tố tụng khác:

Người chứng kiến: Ông Nguyễn Hiếu T (vắng mặt);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Đức V là người có sử dụng ma túy. Khoảng 11 giờ, ngày 28/05/2022, V cất giấu 02 gói giấy bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng ở trong túi quần rồi đi bộ đến khu vực đường trục xóm Hàng, xã Khánh Dương, huyện Yên Mô thì gặp tổ công tác Công an huyện Yên Mô đang làm nhiệm vụ tuần tra đảm bảo an toàn trật tự. Thấy Trần Đức V có biểu hiện nghi vấn, tổ công tác yêu cầu kiểm tra đối với V. Biết không thể che giấu được hành vi vi phạm của mình nên V đã tự giao nộp cho tổ công tác 02 gói giấy bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng.

Tổ công tác tiến hành kiểm tra 02 gói giấy thì phát hiện: 01 gói giấy màu trắng mở ra có kích thước (5x4,2)cm bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng và 01 gói giấy của vỏ bao thuốc lá, mở ra có kích thước (8x5,5)cm bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng. Trần Đức V khai nhận chất bột dạng cục màu trắng là ma túy loại Heroine, Việt cất giấu để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác Công an huyện Yên Mô đã tiến hành thu giữ, niêm phong từng gói giấy chứa chất bột dạng cục màu trắng bỏ vào trong 02 phong bì giấy, ký hiệu lần lượt là A1, A2 và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Trần Đức V.

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Mô đã tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng chất bột dạng cục màu trắng ký hiệu A1, A2 thu giữ của Trần Đức V. Kết quả cân xác định khối lượng chất bột dạng cục màu trắng trong mẫu ký hiệu A1 là 0,11gam, A2 là 0,09 gam. Sau khi cân xác định khối lượng, chất bột dạng cục màu trắng được cho vào 02 túi nilon trong suốt có cùng kích thước (3x3,5)cm, ký hiệu lần lượt là M1, M2 và niêm phong trong 01 phong bì giấy theo quy định. Toàn bộ 02 gói giấy và 01 vỏ phong bì ban đầu được niêm phong vào 01 phong bì giấy ghi “Vỏ bao gói niêm phong vật chứng thu giữ của Trần Đức V ngày 28/05/2022 tại xóm Hàng, xã Khánh Dương, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình”.

Ngày 28/05/2022, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Mô ra quyết định trưng cầu phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình giám định chất ma túy đối với chất bột dạng cục màu trắng ký hiệu M1, M2 thu giữ của Trần Đức V.

Tại bản kết luận giám định số 395/KL-KTHS-MT ngày 02/06/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận:

Mẫu chất bột dạng cục màu trắng gửi giám định ký hiệu M1 có khối lượng 0,0934 gam; M2 có khối lượng 0,0940 gam. Tổng khối lượng chất bột dạng cục màu trắng trong hai mẫu ký hiệu M1, M2 là 0,1874 gam.

Mẫu chất bột dạng cục màu trắng gửi giám định ký hiệu M1, M2 đều là ma túy, loại Heroine.

Heroine là chất ma túy thuộc bảng Danh mục I, số thứ tự 9; Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/05/2018 của Chính phủ.

Hoàn lại đối tượng giám định gồm: Chất bột dạng cục màu trắng còn lại trong mẫu gửi giám định ký hiệu M1 có khối lượng 0,0620 gam, ký hiệu M2 có khối lượng 0,0681gam, đều là ma túy, loại Heroine và toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong. Tất cả được niêm phong trong phong bì ghi “Mẫu vật hoàn trả sau giám định” có ghi số 395/KL-KTHS-MT.

Tại bản Cáo trạng số 29/CT-VKS ngày 17 tháng 6 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình đã truy tố bị cáo Trần Đức V ra trước Tòa án nhân dân huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình để xét xử về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình giữ nguyên quyết định truy tố, đánh giá tính chất vụ án, xem xét hậu quả do hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Trần Đức V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Đức V từ 15 tháng đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ bị cáo là ngày 28/5/2022.

- Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy:

+ Số ma túy thu giữ của Trần Đức V còn lại sau khi giám định là 0,1301 gam Heroine cùng toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong được niêm phong trong phong bì theo quy định. Mặt trước phong bì ghi “Mẫu vật hoàn trả sau giám định số:

395/KL-KTHS-MT vụ Trần Đức V, SN 1997 xảy ra ngày 28/5/2022 tại xã Khánh Dương, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Mẫu vật hoàn trả gồm: M1: 0,0620 gam, M2: 0,0681 gam, đều là ma túy, loại Heroine; Toàn bộ vỏ bao gói niêm phong”;

+ 01 phong bì giấy niêm phong theo quy định, trên vỏ phong bì ghi “vỏ bao gói niêm phong vật chứng thu giữ của Trần Đức V ngày 28/5/2022 tại xóm Hàng, xã Khánh Dương, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình”.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi bị truy tố như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Mô đã nêu. Bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về tội danh, hình phạt.

Bị cáo nói lời sau cùng đã tỏ ra ăn năn, hối lỗi và xin Hội đồng xét xử xem xét xử phạt bị cáo mức án thấp nhất để bị cáo yên tâm cải tạo, sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên và Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về tội danh: Lời khai của bị cáo Trần Đức V tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người chứng kiến, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định số 395/KL-KTHS -MT ngày 02/6/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ để kết luận: khoảng 11 giờ ngày 28/5/2022, tại khu vực đường trục xóm Hàng, xã Khánh Dương, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, Trần Đức V đã có hành vi cất giấu 0,1874 gam Heroin với mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị Công an huyện Yên Mô kiểm tra phát hiện và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ số ma túy trên của Trần Đức V.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến chế độ độc quyền quản lý về ma túy của Nhà nước. Bị cáo là người trưởng thành có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ việc tàng trữ, sử dụng ma túy là hành vi vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý cất giấu 0,1874 gam Heroine để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo Trần Đức V đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự nên việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Mô đối với bị cáo theo bản Cáo trạng là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Điều 249. Tội Tàng trữ trái phép chất ma túy “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

…”

 [3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Trần Đức V không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo Trần Đức V có nhân thân tốt.

[4] Về hình phạt: Xét tính chất hành vi phạm tội, khối lượng và loại chất ma túy mà bị cáo Trần Đức V tàng trữ trái phép, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy cần phải áp dụng một mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để giáo dục cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội, đồng thời góp phần phòng ngừa chung.

[5] Về nguồn gốc ma túy: Trần Đức V khai, khoảng 9 giờ ngày 28/05/2022, Việt thuê xe ôm của một người đàn ông đi từ khu công nghiệp Phúc Sơn, thành phố Ninh Bình đến thị trấn Phát Diệm, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình mua ma túy của một người đàn ông không quen biết ở khu vực cầu Trì Chính. Bản thân Trần Đức V không biết tên tuổi, địa chỉ của người bán ma túy cho mình và người lái xe ôm là ai, ở đâu nên Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Yên Mô không có cơ sở để điều tra xử lý.

[6] Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp:

Đối với số ma túy thu giữ của Trần Đức V còn lại sau khi giám định là 0,1301 gam Heroine cùng toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong được niêm phong trong phong bì theo quy định. Mặt trước phong bì ghi “Mẫu vật hoàn trả sau giám định số:

395/KL-KTHS-MT vụ Trần Đức V, SN 1997 xảy ra ngày 28/5/2022 tại xã Khánh Dương, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Mẫu vật hoàn trả gồm: M1: 0,0620 gam, M2: 0,0681 gam, đều là ma túy, loại Heroine; Toàn bộ vỏ bao gói niêm phong”; 01 phong bì giấy niêm phong theo quy định, trên vỏ phong bì ghi “vỏ bao gói niêm phong vật chứng thu giữ của Trần Đức V ngày 28/5/2022 tại xóm Hàng, xã Khánh Dương, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình” là vật thuộc loại nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành, không có giá trị cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp với điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

[7] Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[8] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố:

Bị cáo Trần Đức V phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Trần Đức V 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ bị cáo là ngày 28/5/2022.

3. Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp:

Tịch thu tiêu hủy: + số ma túy thu giữ của Trần Đức V còn lại sau khi giám định là 0,1301 gam Heroine cùng toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong được niêm phong trong phong bì theo quy định. Mặt trước phong bì ghi “Mẫu vật hoàn trả sau giám định số: 395/KL-KTHS-MT vụ Trần Đức V, SN 1997 xảy ra ngày 28/5/2022 tại xã Khánh Dương, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Mẫu vật hoàn trả gồm: M1:

0,0620 gam, M2: 0,0681 gam, đều là ma túy, loại Heroine; Toàn bộ vỏ bao gói niêm phong”;

+ 01 phong bì giấy niêm phong theo quy định, trên vỏ phong bì ghi “vỏ bao gói niêm phong vật chứng thu giữ của Trần Đức V ngày 28/5/2022 tại xóm Hàng, xã Khánh Dương, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình” Chi tiết vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Mô và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Mô ngày 17/6/2022.

4. Về án phí: Buộc bị cáo Trần Đức V phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

139
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 29/2022/HS-ST

Số hiệu:29/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Mô - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về