Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 285/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B – TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 285/2021/HS-ST NGÀY 21/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 21 tháng 5 năm 2021, tại Hội trường 3- Tòa án nhân dân thành phố B , tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 261/2021/TLST-HS ngày 28 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 231/2021/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Sơn V (tên gọi khác: Không), sinh năm 1996, tại tỉnh Sóc Trăng. Nơi cư trú: Khóm Đ, phường 2, thị xã V, tỉnh S. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Khmer. Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Không. Trình độ học vấn: Lớp 05/12. Con ông Sơn K, sinh năm 1958 (đã chết) và bà Sơn Thị D, sinh năm 1958 (còn sống). Gia đình có 06 anh chị em, bị cáo là con thứ sáu trong gia đình; chưa có vợ, con.

Tiền án: Ngày 22-12-2016, bị Tòa án nhân dân thành phố B , tỉnh Đồng Nai xử phạt 01 năm 02 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” (Bản án số 683/2016/HS-ST). Bị cáo chưa bồi thường cho anh Chau Rách Tà N và anh Chau H.

Tiền sự: Không.

Bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 22-01-2021, chuyển tạm giam theo Lệnh số 248 ngày 31-01-2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B . Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B ; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sơn V là người sử dụng trái phép chất ma túy. Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 22-01-2021, V đến khu vực “Ngã Tư Ga” thuộc quận G, thành phố Hồ Chí Minh, mua của người đàn ông (không rõ tên, địa chỉ) 01 (Một) gói ma túy tổng hợp (hàng đá) với giá 1.350.000đ (Một triệu ba trăm năm mươi nghìn đồng) để sử dụng. Sau đó, V đem số ma túy nêu trên về phòng trọ tại tổ 22, khu phố Hương P, phường Phước T, thành phố B , tỉnh Đồng Nai (nơi ở của V ). Tại đây, V lấy một phần ma túy ra sử dụng, phần còn lại V chia thành 04 (Bốn) gói nhỏ và cất giấu để lúc khác sử dụng.

Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, tại phòng trọ địa chỉ nêu trên, V đang cất giấu 03 (Ba) gói ma túy trong túi quần phía trước bên phải và 01 (Một) gói ma túy trong túi quần phía sau bên phải V đang mặc thì bị Công an phường Phước T kiểm tra phát hiện, bắt quả tang cùng tang vật.

- Vật chứng thu giữ:

+ 04 (Bốn) gói nylon bên trong chứa tinh thể màu trắng (niêm phong gửi giám định).

+ 01 (Một) cân tiểu ly của Sơn V dùng phân chia ma túy.

+ 01 (Một) điện thoại di động hiệu VIVO màu đen – số imel 868797043569252 và 2.800.000đ (Hai triệu tám trăm nghìn đồng) của Sơn V không liên quan đến hành vi phạm tội.

(Bút lục số: 01- 03) - Tại Bản kết luận giám định số 184/KLGĐ-PC09 ngày 26-01-2021 của Giám định viên Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai đã kết luận:

“Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 6,30701gam, loại: Methamphetamine”. (Bút lục số: 07) - Bản cáo trạng số: 293/CT-VKSBH-HS ngày 27 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B , tỉnh Đồng Nai truy tố Sơn V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B phát biểu luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: tuyên bố bị cáo Sơn V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Sơn V từ 05 năm – 05 năm 06 tháng tù, xử lý vật chứng và buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

- Tại phiên tòa bị cáo trình bày: bị cáo thống nhất với hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố, không có ý kiến gì đối với kết luận giám định.

- Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố B , Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B , Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ. Quá trình điều tra bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu có tại hồ sơ như biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, bản kết luận giám định. Đã có đủ cơ sở kết luận:

Vào khoảng 23 giờ ngày 22-01-2021, tại tổ 22, khu phố Hương Phước, phường Phước Tân, thành phố B , tỉnh Đồng Nai, Sơn V có hành vi tàng trữ trái phép 6,30701gam ma túy loại Methamphetamine (theo Bản kết luận giám định số 184/KLGĐ-PC09 ngày 26-01-2021 của Giám định viên Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai) thì bị Công an phường Phước Tân phát hiện bắt quả tang.

Như vậy, bị cáo Sơn V đã có hành vi tàng trữ Methamphetamine, đây là chất ma túy nằm trong danh mục các chất cấm theo quy định của Chính phủ. Hành vi của bị cáo Sơn V đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố và viện dẫn.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự, trị an và an ninh xã hội, xâm phạm đến chính sách của Nhà nước Việt Nam về đấu tranh phòng ngừa và loại bỏ ma túy ra khỏi cuộc sống xã hội. Hội đồng xét xử xét thấy, cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm mục đích răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo phạm tội “Cố ý gây thương tích” (Bản án số 683/2016/HS-ST ngày 22/12/2016 của Tòa án nhân dân thành phố B ) chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội nên phạm vào tình tiết tăng nặng “Tái phạm” quy điṇ h tai điêm h khoan 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Đối với người đàn ông (không rõ tên, địa chỉ) có hành vi bán ma túy cho V , Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau là đúng quy định.

[3] Xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) cân tiểu ly của Sơn V dùng phân chia ma túy và toàn bộ lượng ma túy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B thu giữ sau giám định.

Trả lại (01) một điện thoại di động hiệu VIVO màu đen – số imel 868797043569252 và 2.800.000đ (Hai triệu tám trăm nghìn đồng) của Sơn V không liên quan đến hành vi phạm tội.

(Các vật chứng nêu trên được thể hiện tại Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 06/5/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B .

Số tiền nêu trên theo Biên lai thu tiền số 0000646 ngày 29/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B ).

[4] Về án phí hình sự sơ thẩm:

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Nhận định về phần trình bày của Kiểm sát viên, bị cáo tại phiên tòa:

- Đối với phần trình bày của Kiểm sát viên: về tội danh truy tố và mức hình phạt đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp nên được chấp nhận.

- Đối với phần trình bày của bị cáo sẽ được Hội đồng xét xử xem xét khi giải quyết vụ án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106, 136, 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Sơn V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Sơn V 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày bị bắt quả tang 22-01-2021.

2. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) cân tiểu ly của Sơn V dùng phân chia ma túy và toàn bộ lượng ma túy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B thu giữ sau giám định.

Trả lại (01) một điện thoại di động hiệu VIVO màu đen – số imel 868797043569252 và 2.800.000đ (Hai triệu tám trăm nghìn đồng) của Sơn V không liên quan đến hành vi phạm tội.

(Các vật chứng nêu trên được thể hiện tại Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 06/5/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B .

Số tiền nêu trên theo Biên lai thu tiền số 0000646 ngày 29/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B ).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Sơn V phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí.

4. Quyền kháng cáo:

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 285/2021/HS-ST

Số hiệu:285/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về