TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN BÀN, TỈNH LÀO CAI
BẢN ÁN 28/2023/HS-ST NGÀY 29/05/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 29 tháng 5 năm 2023, tại điểm cầu trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai và điểm cầu nhà tạm giữ Công an huyện Văn Bàn mở phiên tòa công khai xét xử trực tuyến sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 25/2023/TLST-HS ngày 26 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2023/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 5 năm 2023, đối với Bị cáo: Lương Văn T, sinh ngày 01 tháng 01 năm 1989 tại huyện V, tỉnh Lào Cai; Nơi Đăng ký HKTT: Xã M, huyện V, Lào Cai; Nơi cư trú: Thôn 2 M, xã M, huyện V, Lào Cai; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: Không; Đảng phái: Không; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn: 0/12; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Nhân thân: Là người nghiện chất ma túy; Con ông Lương Văn C, sinh năm 1955 và con bà Hoàng Thị T, sinh năm 1958; Bị cáo có vợ: Nguyễn Thị S - sinh năm 1985; Bị cáo có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2009, con nhỏ nhất sinh năm 2015. Hiện trú tại: Thôn 2 M, xã M, huyện V, tỉnh Lào Cai.
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 17/3/2023. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai. Có mặt tại điểm cầu nhà tạm giữ Công an huyện Văn Bàn.
- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Lương Thị C – Trợ giúp viên pháp lý, thuộc Trung Tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lào Cai. Có mặt tại điểm cầu nhà tạm giữ Công an huyện Văn Bàn.
- Người chứng kiến: Anh Lương Văn Y, sinh năm 1993. Địa chỉ: Thôn 2 M, xã M, huyện V, tỉnh Lào Cai. Vắng mặt, không có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 09 giờ 20 phút, ngày 17/3/2023, Công an xã M tiến hành tuần tra tại thôn 2 M, xã M, huyện V thì nhận được tin báo tại nhà của Lương Văn T có biểu hiện phạm tội về ma túy. Tổ công tác đã triển khai lực lượng đến nhà Lương Văn T, gặp và yêu cầu Lương Văn T có đồ vật tài liệu gì liên quan đến ma túy thì giao nộp. Lương Văn T tự giác lấy từ trong túi áo khoác bên phải của T đang để ở trên giường ngủ của T ra 01 gói nilon mầu hồng bên trong chứa chất bột khô, màu trắng, vón cục giao nộp cho công an và khai nhận là ma túy của T tàng trữ để sử dụng. Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ và niêm phong vật chứng theo quy định. Tiến hành khám xét chỗ ở của Lương Văn T không thu giữ đồ vật, tài liệu gì.
Về nguồn gốc ma túy Lương Văn T khai: Khoảng 19 giờ ngày 16/3/2023, trên đường liên thôn thuộc thôn 2 M, xã M, huyện V. Lương Văn T gặp một người đàn ông không quen biết và nhờ đi mua hộ 150.000 đồng ma túy, người đàn ông cầm tiền và đi khoảng 40 phút thì quay lại đưa cho T 01 gói ma túy gói bằng nilon mầu hồng, T cầm gói ma túy cất vào túi áo khoác và đi về nhà, đến ngày 17/3/2023 thì bị Công an đến kiểm tra và bắt quả tang.
Bản kết luận giám định số 90/KL-GĐMT ngày 22/3/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh lào cai, kết luận: 0,19 gam chất bột khô, màu trắng, vón cục thu giữ của Lương Văn T là ma túy Heroine (Hêrôin).
Bản cáo trạng số: 26/CT-VKS-VB ngày 25 tháng 4 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai đã truy tố bị cáo Lương Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
Bị cáo Lương Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung vụ án tóm tắt nêu trên.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai trình bày quan điểm luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố tại bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lương Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Căn cứ vào điểm c khoản 1Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt Lương Văn T từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Xử lý vật chứng, tuyên án phí theo quy định của pháp luật.
Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt Lương Văn T 01 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Bị cáo nhất trí với quan điểm luận tội của Viện kiểm sát. Khi nói lời sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho mình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về Tội danh:
Lời khai nhận tội của bị cáo Lương Văn T tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định, lời khai của bị cáo, người chứng kiến trong quá trình điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở kết luận: Ngày 17/3/2023, bị cáo Lương Văn T đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,19 gam Heroine với mục đích để sử dụng. Vì vậy, Bản cáo trạng số 26/CT-VKS-VB ngày 25 tháng 4 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai đã truy tố bị cáo Lương Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Về hình phạt:
Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Bị cáo Lương Văn T là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng, đã xâm phạm vào chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý được pháp luật bảo vệ. Hành vi đó gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo nghiêm minh trước pháp luật để giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm.
Về nhân thân: Bị cáo là người nghiện chất ma túy.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
Sau khi cân nhắc các căn cứ quyết định hình phạt đã phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo đối với bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.
Viện kiểm sát đề nghị và ý kiến của người bào chữa đề nghị xử phạt đối với bị cáo Lương Văn T là phù hợp, nên được chấp nhận.
[4] Về hình phạt bổ sung: Bản thân bị cáo là người nghiện chất ma túy, không có tài sản gì riêng có giá trị, điều kiện kinh tế gia đình khó khăn thuộc hộ cận nghèo, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.
[5] Về xử lý vật chứng, gồm: 0,19 gam Heroine Cơ quan giám định đã lưu mẫu 0,05 gam còn lại 0,14 gam Heroine hoàn lại sau giám định cùng toàn bộ niêm phong cũ đã được niêm phong. Đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành, nên cần tịch thu để tiêu hủy.
[6] Về tình tiết khác của vụ án: Đối với người đàn ông đi mua ma túy giúp Lương Văn T quá trình điều tra không xác định được họ tên, địa chỉ nên không căn cứ để xử lý.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Lương Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Lương Văn T 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 17/3/2023.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 0,14 (Không phẩy mười bốn) gam Heroine; cùng toàn bộ niêm phong cũ đựng trong 01 (Một) bì niêm phong còn nguyên vẹn, trên một mặt của bì có ghi: “Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu giữ của Lương Văn T ngày 17/3/2023 tại xã M, huyện V, tỉnh Lào Cai”. Mặt còn lại của bì có các chữ ký và dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Lào Cai.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/4/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Văn Bàn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Văn Bàn).
Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Lương Văn T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các điều 6, điều 7, điều 7a, 7b và điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 28/2023/HS-ST
Số hiệu: | 28/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Văn Bàn - Lào Cai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/05/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về