Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 28/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 28/2022/HS-ST NGÀY 01/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 01 tháng 7 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 26/2022/TLST-HS ngày 13 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2022/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 5 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Bị cáo Điểu Thành Đ, sinh ngày 20/6/2004; tại Bình Phước; nơi cư trú: thôn S, xã V, huyện B, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: làm nông; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Xtiêng; giới tính: Nam; tôn giáo: Tin lành; quốc tịch: Việt Nam; con ông Điểu Đ1 và bà Thị M; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 27/01/2022 đến ngày 30/01/2022 bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú “có mặt tại phiên tòa”.

2. Bị cáo Điểu T, sinh năm 2001; tại Bình Phước; nơi cư trú: thôn S, xã V, huyện B, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: làm nông; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: Xtiêng; giới tính: Nam; tôn giáo: Tin lành; quốc tịch: Việt Nam; con ông Điểu N và bà Thị Ng; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/01/2022 đến nay “có mặt tại phiên tòa”.

- Người bào chữa cho bị cáo Điểu Thành Đ: Bà Phan Thị V – Trợ giúp viên pháp lý – Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bình Phước;

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Điểu Thành Đ là: Bà Thị M, sinh năm 1986 “có mặt”;

-. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Điểu Đ1, sinh năm 1984 “có mặt”;

- Người chứng kiến: Ông Điểu B, sinh năm 1981 “có mặt”; Cùng cư trú tại: thôn S, xã P, huyện B, tỉnh Bình Phước;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Điểu Thành Đ và Điểu T là bạn bè quen biết với nhau. Vào ngày chiều ngày 27/01/2022, Điểu Thành Đ và Điểu T cùng góp tiền tiền mua ma túy, do T không có tiền nên Đ cho T mượn 100.000 đồng để góp với Đ cùng mua ma túy thì T đồng ý. Sau đó Đ mượn điện thoại của một đối tượng tên Sơn (không rõ nhân thân lai lịch) gọi điện cho một đối tượng (chưa rõ nhân thân lai lịch) tại thị xã Phước Long để hỏi mua ma túy thì đối tượng này đồng ý bán. Sau đó, T điều khiển xe mô tô (không biển kiểm soát) chở Đ đến khu vực cầu Đăk Lung thuộc phường Long Thủy, thị xã Phước Long gặp đối tượng bán ma túy, khi gặp thì đối tượng này chỉ chỗ giấu ma túy rồi bỏ đi. Sau đó Đ đi xuống gầm cầu lấy 01 gói ma túy được bỏ dưới dưới hòn đá và bỏ lại dưới hòn đá 200.000 dồng rồi cùng T đi về lại xã Phú Văn. Khi về đến thôn Đăk Son 2, xã Phú văn thì bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện lập biên bản quả tang và thu giữa 0 gói nylon được hàn kín và 01 xe mô tô (không có biển kiểm soát) Kết luận giám định số: 45/2022/GĐ-MT ngày 28/01/20222 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước kết luận: Tinh thể màu trắng (ký hiệu M) có trong 01 (một) gói nylon hàn kín được niêm phong gửi giám định là Ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng là 0,3223 gam. Hoàn lại sau giám định 0,2670gam.

Kết luận giám định số: 51/KL(SKSM) - KTHS ngày 23/3/20222 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước kết luận: Xe mô tô hiệu Wave màu đỏ - đen không có biển kiểm soát qua giám định không xác định được số khung.

Tại bản cáo trạng số: 24/CT-VKS ngày 05 tháng 5 năm 2022, Viện Kiểm sát nhân dân huyện B đã truy tố các bị cáo Điểu Thành Đ, Điểu T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50, Điều 58 Bộ luật Hình sự Xử phạt bị cáo Điểu T từ 15 (mười năm) tháng đến 18 (mười tám) tháng tù.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50; các Điều 90, 91, 98 và 101 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Điểu Thành Đ từ 12 (mười hai) đến 15 (mười năm) tháng tù.

Về xử lý vật chứng đề nghị: áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Đối với 0,2670 gam ma túy, loại Methamphetamine (hoàn lại sau giám định được niêm phong) là vật chứng của vụ án, nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 xe mô tô không biển kiểm soát quá trình điều tra xác định xe trên là do ông Điểu Đình mua lại của người khác đã lâu, xe không có giấy tờ. Ngày 24/3/2022, cơ quan CSĐT đã ra thông báo truy tìm chủ sở hữu nhưng đến nay đã hết thời hạn nhưng vẫn không có ai đến nhận. Do đó đề nghị tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Điểu Thành Đ trình bày: Việc Viện kiểm sát nhân dân huyện B truy tố bị cáo Điểu Thành Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người đúng tội. Tuy nhiên trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Đ đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu, bị cáo là người dân tộc thiểu số nên việc nhận thức pháp luật còn hạn chế; bị cáo sinh sống khu vực có điều kiện kinh tế - xã hồi đặc biệt khó khăn; bị cáo là người có nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự, gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người chưa thành niên phạm tội nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 65, Điều 90, Điều 91 Bộ luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo Đ mức án 12 tháng tù.

Tại phiên tòa các bị cáo Điểu Thành Đ, Điểu T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội phù hợp với nội dung bản cáo trạng đã xác định.

Tại phiên tòa bị cáo các bị cáo Điểu Thành Đ, Điểu T không tranh luận gì về tội danh, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Các bị cáo nói lời sau cùng: các bị cáo nhận thấy hành vi phạm tội của bị cáo là sai, vi phạm pháp luật. Các bị cáo cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối chiếu lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, người chứng kiến và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ về thời gian, địa điểm phạm tội và vật chứng vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào chiều ngày 27/01/2022, bị cáo Điểu Thành Đ rủ bị cáo Điểu T cùng góp tiền mua ma túy, do T không có tiền nên Đ cho T mượn 100.000 đồng để góp với Đ cùng mua ma túy. Sau đó Đ mượn điện thoại của một đối tượng tên Sơn (chưa rõ nhân thân lai lịch) gọi điện cho một đối tượng (chưa rõ nhân thân lai lịch ) tại thị xã Phước Long để hỏi mua 0,3223 gam ma túy với giá 200.000 đồng. Khi lấy được ma túy thì cả hai về lại thôn Đăk Son 2, xã Phú Văn thì bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện lập biên bản quả tang.

[3] Đối chiếu hành vi nêu trên của các bị cáo Điểu Thành Đ, Điểu T so với những quy định của pháp luật thì hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện B truy tố các bị cáo Điểu Thành Đ, Điểu T về tội “Tàng trữ bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[4] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách quản lý độc quyền của nhà nước đối với chất ma túy, trong đó có loại Methamphetamine. Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ được hành vi phạm tội của mình là rất nguy hiểm, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng do muốn có ma túy để sử dụng cho bản thân nên các bị cáo đã cố ý trực tiếp thực hiện việc phạm tội. Do đó cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo, nhằm giáo dục bị cáo có ý thức tôn trọng pháp luật và phòng ngừa chung.

[5] Đây là vụ án mang tính đồng phạm giản đơn:

[5.1] Đối với bị cáo Điểu Thành Đ là người khởi xướng, rủ bị cáo Điểu T góp tiền cùng mua ma túy sử dụng, do bị cáo Điểu T không có tiền nên bị cáo đã cho Điểu T mượn số tiển 100.000 đồng để góp với bị cáo để mua ma túy, cũng chính bị cáo là người trực tiếp liên lạc với đối tượng (không rõ nhân thân lai lịch) tại thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước để liên hệ mua ma túy. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức án tương xứng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[5.2] Đối với bị cáo Điểu T sau khi được bị cáo Điểu Thành Đ rủ góp tiền mua ma túy về sử dụng thì bị bị cáo đã đồng ý và chính bị cáo là người chở bị cạo Đ ra tại khu vực cầu Đăk Lung thuộc phường Long Thủy, thị xã Phước Long để gặp đối tượng mua ma túy. Vì vậy, cần xử bị cáo mức án tương xứng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện nhằm răn đe, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung.

[6] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[6.1] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội các bị cáo Điểu Thành Đ, Điểu T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo phạm tội lần đầu; các bị cáo có trình độ học vấn thấp, là người đồng bào dân tộc thiểu số nên việc nhận thức pháp luật còn hạn chế đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Điểu Thành Đ khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo là người chưa thành niên nên cần áp dụng Điều 90, Điều 91 và Điều 101 Bộ luật hình sự để xem xét quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[6.2] Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo Điểu Thành Đ, Điểu T không có tình tiết tăng nặng tránh nhiệm hình sự nào.

[6.3] Về nhân thân: các bị cáo là người có nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự.

[7] Xét về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, do đó các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người không có nghề nghiệp, không có thu nhập. Do đó không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo [8] Đại diện Viện kiểm sát đề nghị mức án đối với các bị cáo và đề nghị xử lý vật chứng trong vụ án là có căn cứ, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Quan điểm của Luật sư bào chữa cho bị cáo Điểu Thành Đ là có căn cứ một phần nên được Hội đồng xét xử chấp nhận một phần.

[10] Về vật chứng:

Đối với 0,2670 gam ma túy, loại Methamphetamine (hoàn lại sau giám định được niêm phong) là vật chứng của vụ án, nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 xe mô tô không biển kiểm soát quá trình điều tra xác định xe trên là do ông Điểu Đình mua lại của người khác đã lâu, xe không có giấy tờ.

Ngày 24/3/2022, cơ quan CSĐT đã ra thông báo truy tìm chủ sở hữu nhưng đến nay đã hết thời hạn nhưng vẫn không có ai đến nhận. Do đó tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

[11] Đối với đối tượng tên Sơn cho bị cáo Đ mượn diện thoại để liên lạc mua ma túy, quá trình điều tra không xác định được nhân thân lai lịch nên không có cơ sở để xử lý.

Đối với đối tượng bán ma túy cho bị cáo Đ hiện không rõ nhân thân lai lịch nên nên không có cơ sở để xử lý.

[12] Án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Điểu Thành Đ, Điểu T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng vào điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58, Điều 90, Điều 91 và Điều 101 Bộ luật hình sự, phạt bị cáo Điểu Thành Đ 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt bị cáo đi thi hành án và được trừ thời gian tạm giữ ngày 27/01/2022 đến ngày 30/01/2022.

Áp dụng vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, phạt bị cáo Điểu T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 27/01/2022.

2. Về xử lý vật chứng vụ án: Căn cứ vào các Điều 47 Bộ luật Hình sự Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Tịch thu tiêu hủy 0,2670 gam ma túy, loại Methamphetamine (hoàn lại sau giám định được niêm phong) là vật chứng của vụ án, Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước đối với 01 xe mô tô không biển kiểm soát, không bán thờ, không kính chiếu hậu, không ốp nhựa.

(Theo biên bản giao nhận vât chứng số 0008757 ngày 10 tháng 5 năm 2022 của Chi cục THADS huyện B, tỉnh Bình Phước).

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ Ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, các bị cáo Điểu Thành Đ, Điểu T phải chịu mỗi bị cáo 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Các bị cáo, người bào chữa cho bị cáo Điểu Thành Đ, người đại diện hợp pháp cho bị cáo Điểu Thành Đ; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

138
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 28/2022/HS-ST

Số hiệu:28/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Đốp - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về