Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 28/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH CỬU, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 28/2022/HS-ST NGÀY 28/02/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 28 tháng 02 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 16/2022/TLST-HS ngày 10 tháng 02 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2022/QĐXXST- HS ngày 15 tháng 02 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, đối với b ị cáo:

Họ và tên: Huỳnh Văn U, Sinh ngày 02/10/1996, tại tỉnh Đồng Nai; Nơi cư trú: Tổ 3, ấp 1, xã V, huyện V1, tỉnh Đồng Nai; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: Lớp 5/12; Nghề nghiệp: Chăn nuôi; Họ tên cha: Huỳnh Văn H1, sinh năm 1968; Họ tên mẹ: Mai Thị N, sinh năm 1967; Gia đình bị cáo có 03 anh, chị em, bị cáo là thứ ba trong gia đình, có vợ tên Nguyễn Ngọc M, sinh năm 1991 và có 03 con, lớn nhất sinh năm 2014, nhỏ nhất sinh năm 2021.

Tiền án: Ngày 25/02/2021, bị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu xử phạt 01 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, ngày 14/10/2021 được cấp giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt tù.

Tiền sự: Không Nhân thân:

- Ngày 15/4/2016, bị Tòa án nhân dân quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 12 tháng. Ngày 21/02/2017, được cấp giấy chứng nhận chấp hành xong Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

- Ngày 06/7/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 22 tháng. Ngày 26/9/2019 được miễn chấp hành phần thời gian áp dụng biện pháp xử lý hành chính còn lại.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 10/11/2021, chuyển tạm giam ngày 19/11/2021 theo Lệnh số 2899/L của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Cửu. Hiện bị cáo đang tạm giam tại Cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam Công an huyện Vĩnh Cửu.

(Bị cáo có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Huỳnh Văn U là đối tượng nghiện chất ma túy. Khoảng 17 giờ 10/11/2021, U điều khiển xe mô tô biển số 60V6-8557 đi từ nhà tại tổ 3, ấp 1, xã V đến nhà Phan Thị Thái H, sinh năm 1965 ngụ khu phố 1, thị trấn V, huyện V1 mua ma túy đá mục đích sử dụng. Đến nơi, U gặp và mua của H 500.000 đồng ma túy đá. U nhận bịch ma túy giấu trong người rồi điều khiển xe mô tô biển số 60V6-8557 đi về nhà ông Lê Văn B ngụ tổ 3, ấp 4, xã V, huyện V1 chơi. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, Công an xã V kiểm tra hành chính nhà ông B. Thấy vậy, U cầm bịch ma túy và điện thoại di động hiệu OPPO ném xuống đất cách nơi U đứng khoảng 02m. Công an xã V lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Cửu giải quyết theo thẩm quyền.

Tang vật, tài sản tạm giữ: 01 bịch nilon được hàn kín bên trong chứa ma túy đã được niêm phong; 01 điện thoại di động hiệu OPPO; 01 xe mô tô biển số 60V6-8557.

Tại Kết luận giám định số 2168/KLGĐ-PC09 ngày 18/11/2021 của Giám định viên Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy có khối lượng 0,4937 gam loại Methamphetamine. Hoàn lại đối tượng sau giám định trong niêm phong số 2168/KLGĐ-PC09.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai.

* Xử lý tang vật, tài sản tạm giữ:

Xe mô tô biển số 60V6-8557 do ông Huỳnh Văn H1, sinh năm 1968 ngụ ấp 1, xã V, huyện V1 là cha của Huỳnh Văn U đứng tên trên giấy chứng nhận đăng ký. Ông H1 cho U mượn xe mô tô để đi làm và không biết U điều khiển đi mua ma túy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Cửu đã giao trả xe mô tô biển số 60V6- 8557 cho ông H1.

Viện kiểm sát đề nghị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu căn cứ Điều 47, 48 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định trong niêm phong số 2168/KLGĐ-PC09; trả lại Huỳnh Văn U 01 điện thoại di động hiệu OPPO.

Đối với Phan Thị Thái H có liên quan đến vụ án, được xử lý trong vụ án khác nên không xem xét trong vụ án này.

Tại bản cáo trạng số: 27/CT-VKSVC ngày 09/02/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo Huỳnh Văn U xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túytheo điểm c, khoản 1, Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:

- Xử phạt bị cáo Huỳnh Văn U từ 16 đến 20 tháng tù.

- Buộc bị cáo chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu, bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo nhận thức hành vi của mình là sai, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện Vĩnh Cửu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng và các chứng cứ khác được thu thập trong quá trình điều tra, thể hiện:

Khoảng 21 giờ ngày 10/11/2021, tại tổ 3, ấp 4, xã V, huyện V1, tỉnh Đồng Nai, Huỳnh Văn U có hành vi tàng trữ trái phép 0,4937 gam ma túy loại Methamphetamine mục đích sử dụng.

[3]. Do vậy, hành vi của bị cáo U đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, như cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố là có căn cứ và đúng pháp luật.

[4]. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm hại đến chính sách độc quyền quản lý về các chất ma túy của Nhà nước, bản thân bị cáo là người nghiện ma túy, hiểu rất rõ tác hại của chất ma túy nhưng bị cáo bất chấp quy định của pháp luật đã thực hiện hành vi phạm tội, đây là nguyên nhân, mầm mống lây truyền căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS, đồng thời cũng là nguồn gốc phát sinh các loại tội phạm khác. Do vậy, cần có mức án nghiêm tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo nhằm cải tạo và giáo dục bị cáo, răn đe phòng ngừa chung, nên cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt cho xã hội.

[5]. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có tình tiết tăng nặng là tái phạm theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[6]. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo điểm s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

[7]. Về xử lý vật chứng:

7.1. Đối với số ma túy còn lại sau giám định niêm phong số 2168/KLGĐ-PC09 có tên Huỳnh Văn U (1996), niêm phong ngày 18/11/2021 không còn giá trị sử dụng, nên tịch thu tiêu hủy.

7.2. Đối với xe mô tô bị cáo sử dụng làm phương tiện đi lại của ông Huỳnh Văn H1 cho bị cáo mượn, do ông H1 không biết bị cáo sử dụng vào mục đích phạm tội. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã xử lý giao trả ông H1, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

7.3. Đối với chiếc điện thoại di động hiệu OPPO của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội, nên trả lại bị cáo.

[8]. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[9]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo: Huỳnh Văn U phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm s, khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Điều 262; 331; 333; 336; 337 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Xử phạt bị cáo Huỳnh Văn U 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10/11/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47; 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định niêm phong số 2168/KLGĐ- PC09 có tên Huỳnh Văn U (1996) niêm phong ngày 18/11/2021, có chữ ký giám định viên Phạm Thị Hương M1 và đại diện cơ quan CSĐT Trần Trung K.

- Trả lại bị cáo chiếc điện thoại di động hiệu OPPO màu đen (bị bể màn hình, hiện không lên nguồn).

Tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/02/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Vĩnh Cửu.

3. Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hì nh sự sơ thẩm.

4. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 28/2022/HS-ST

Số hiệu:28/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Cửu - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về