Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 28/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MAI CHÂU, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 28/2021/HS-ST NGÀY 20/08/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 28/2021/HSST ngày 21/7/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2021/QĐXXST-HS ngày 06/8/2021 đối với bị cáo: Ngần Văn A, tên gọi khác (không), sinh ngày 13 tháng 10 năm 1994 tại huyện M, tỉnh Hòa Bình; Nơi cư trú: Xóm C, xã H, huyện M, tỉnh Hòa Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Ngần Văn D (đã chết) và bà Vì Thị U, sinh năm 1967; Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Không có án tích, chưa bị xử lý hành chính, xử lý kỷ luật lần nào, có sử dụng chất ma túy, là đảng viên đã bị đình chỉ sinh hoạt theo quyết định số: 33 -QĐ/UBKTHU ngày 28/7/2021 của Ủy ban kiểm tra huyện ủy M.

Bị cáo bị tạm giữ ngày 01/4/2021 đến ngày 07/4/2021 thực hiện lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Vì Thị U, sinh năm 1967; trú tại:

Xóm C, xã H, huyện M, tỉnh Hòa Bình. Có mặt.

Người làm chứng: Khà Thị V, sinh năm 1992; trú tại: Xóm N, xã P, huyện M, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 19 giờ 30 phút ngày 01/4/2021, Công an huyện M phối hợp cùng công an xã H đang làm nhiệm vụ tại xóm C, xã H, huyện M, tỉnh Hòa Bình. Phát hiện Ngần Văn A có nhiều nghi vấn, tổ công tác yêu cầu dừng xe và Ngần Văn A đã tự giác giao nộp 01 túi nilon bên trong có 02 viên nén màu hồng. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng.

Tại cơ quan điều tra Ngần Văn A khai nhận do bản thân nghiện ma túy nên vào khoảng 17 giờ ngày 01/4/2021, Ngần Văn A lấy xe mô tô BKS 29L5- 10102 của bà Vì Thị U, đi đến nhà Khà Thị V ở xóm N, xã P, huyện M để mua 02 viên ma túy tổng hợp với giá 200.000 đồng để về sử dụng. Sau khi mua được Ngần Văn A cho ma túy vào túi quần và điều khiển xe mô tô về hướng xã H với mục đích tìm chỗ vắng để sử dụng, thì bị công an bắt quả tang cùng toàn bộ vật chứng.

Kết luận giám định số 397/KLGĐ-CAT-PC09 ngày 07/4/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình kết luận: 02 viên nén màu hồng thu giữ của Ngần Văn A có khối lượng 0,21 gam, là ma túy loại Methamphetamine.

Bản cáo trạng số 28/CT- VKS - HS ngày 20/7/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố Ngần Văn A về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M luận tội giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt Ngần Văn A từ 12 đến 18 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy được trừ 06 ngày đã bị tạm giữ.

Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Đề nghị tịch thu toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định của bị cáo để tiêu hủy sau khi án có hiệu lực pháp luật. Trả lại xe mô tô BKS 29L5- 10102 cho chủ sở hữu hợp pháp là bà Vì Thị U.

Bị cáo khai đã mua ma túy với Khà Thị V, quá trình điều tra Khà Thị V không thừa nhận đã bán ma túy nên không có cơ sở đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục xem xét.

Lời khai của bà Vì Thị U thể hiện Ngần Văn A lấy xe của bà đi ăn cưới, bà không biết Ngần Văn A sử dụng xe để đi mua ma túy.

Bị cáo Ngần Văn A nhất trí với nội dung bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện M, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa Ngần Văn A khai nhận về hành vi phạm tội như sau: Do bản thân nghiện ma túy nên ngày 01/4/2021 Ngần Văn A đã mua 02 viên ma túy tổng hợp có khối lượng là 0,21 gam với giá 200.000 đồng mục đích để sử dụng cho bản thân, nhưng đã bị Công an huyện M bắt giữ cùng tang vật. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản niêm phong đồ vật, thu giữ tài liệu; Kết luận giám định; biên bản hỏi cung và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy có đủ căn cứ để kết luận: Ngần Văn A phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

………… c) Heroine, Cocanine, Mathamphetamine, Amphetamine, MDMA, hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 5 gam” Bản cáo trạng và luận tội của Viện kiểm sát đối với bị cáo là chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, HĐXX thấy rằng: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, làm gia tăng các tệ nạn xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Bản thân bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được việc Tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng để thỏa mãn cơn nghiện bị cáo đã cố tình phạm tội.

Xét về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân đối với bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, không có án tích, chưa bị xử lý hành chính, xử lý kỷ luật lần nào, nhưng bị cáo không gương mẫu chấp hành chính sách pháp luật mà còn sử dụng chất ma túy; về tình tiết giảm nhẹ quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về hình phạt bổ sung: Qua điều tra xác minh và thẩm vấn công khai tại phiên tòa thể hiện gia đình hoàn cảnh, bị cáo không có việc làm ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

[5] Về vấn đề khác: - Đối với Khà Thị V là người mà Ngần Văn A khai đã được mua ma túy, quá trình điều tra, xác minh Khà Thị V không thừa nhận đã bán ma túy Ngần Văn A, không còn chứng cứ nào khác, do đó không đủ căn cứ để xử lý nên Hội đồng xét xử không xét đến.

- Việc Ngần Văn A lấy xe mô tô BKS29L5- 10102 với mục đích đi ăn cưới, bà Vì Thị U không biết Ngần Văn A đi mua ma túy nên cần phải trả lại xe mô tô cho bà Vì Thị U.

[6] Về vật chứng của vụ án cần xử lý như sau: Đối với toàn bộ số ma túy của bị cáo hoàn trả sau giám định cần phải tịch thu để tiêu huỷ. Trả lại xe mô tô BKS 29L5- 10102 cho chủ sở hữu hợp pháp.

[7]Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1.Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Ngần Văn A phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

2.Về mức hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Ngần Văn A 13 (Mười ba) tháng tù được trừ 06 ngày đã bị tạm giữ. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

3.Về vật chứng của vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

-Tuyên tịch thu để tiêu hủy: 01( một) phong bì niêm phong, mặt trước có chữ Công an tỉnh Hòa Bình, Phòng kỹ thuật hình sự. Mẫu giám định ma túy, mẫu trả lại CQTC, mẫu lưu CQGĐ,CBGĐ: Đỗ Thành Công, số nhận giám định:

97 ngày 03/4/2021, số thông báo KLGĐ: 97 ngày 07/4/2021. Cơ quan trưng cầu, cơ quan CSĐT huyện M số: 15 ngày 02/4/2021. Tên đối tượng Ngần Văn A. Tên mẫu vật Methamphetamine khối lượng 01. Mặt sau phong bì có chữ ký của cán bộ niêm phong Đỗ Thành C và Lường Văn S, được đóng dấu giáp lai bằng 05 (năm) dấu tròn của của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình.

- Trả lại bà Vì Thị U, sinh năm 1967; trú tại: Xóm C, xã H, huyện M, tỉnh Hòa Bình. 01 xe mô tô nhãn hiệu EXCITER màu xanh pha trắng, biển kiểm soát 29L5- 101.02, số khung RLCUG0610FY121746, số máy G3D4E – 134353, xe không có gương chiếu hậu, không có hộp xích, không có yếm chắn bùn( kèm theo 01 chìa khóa xe), xe cũ đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng máy móc bên trong.

Các vật chứng nêu trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện M, tình trạng và đặc điểm của vật chứng đã được ghi trong biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số: 33/THA ngày 17/8/2021.

3.Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Hoà Bình để xin xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 28/2021/HS-ST

Số hiệu:28/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mai Châu - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về