Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 28/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN G, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 28/2021/HS-ST NGÀY 10/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện G, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 20/2021/TLST- HS ngày 05/02/2021 và theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2021/QĐXXST-HS ngày 22/02/2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn P, sinh năm 1982 tại: Hà Nội; ĐKHKTT: Thôn 5, xã Đ, huyện G, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Văn hóa: 07/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Nguyễn Văn N và bà: Nguyễn Thị K; Vợ: Hà Thị M; có 02 con, con lớn sinh 2014, con nhỏ sinh 2017; Tiền án-tiền sự: Theo danh chỉ bản số 395 ngày 19-11-2020 do Công an huyện G lập và lý lịch bị can thì bị cáo chưa có tiền án-tiền sự; bị cáo bị bắt khẩn cấp và tạm giữ từ ngày 10-11-2020 đến ngày 18-11-2020 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang tạm giam tại trại tạm giam số 2 - Công an thành phố Hà Nội; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Bản thân là đối tượng nghiện ma túy đá. Khoảng 13 giờ ngày 09-11-2020, Nguyễn Văn P mượn xe máy nhãn hiệu Honda Wave đeo BKS 29U9-1542 của anh Dương Văn S, sinh 1979, là chủ cai xây dựng để đi có việc, anh S đồng ý. P điều khiển xe máy đến khu vực xã T, Bắc Ninh đi vào 01 ngõ nhỏ đến trước 01 ngồi nhà có cửa sắt đóng kín mua của 1 người phụ nữ không rõ nhân thân 2.000.000 đồng tiền ma túy đá để sử dụng cho bản thân. Sau khi mua được ma túy P cầm ma túy ở tay và đi về trả xe cho anh S. Sau đó lấy bộ dụng cụ sử dụng ma túy do P tự chế đi sang phòng ngủ của anh S thuê, lấy một phần ma túy đá vừa mua được cho vào coong thủy tinh đốt để sử dụng. Sau khi sử dụng ma túy xong, P cất giấu số ma túy còn lại ở nền nhà trong phòng ngủ và che màn phủ lên trên. Khoảng 19 giờ cùng ngày, P đi sang phòng trọ anh S thuê thì gặp Nguyễn Văn Hảo, Bùi Văn Cơ, Dương Văn S, Nguyễn Văn T1, Nguyễn Văn L1, Dương Văn B1, Hà Minh N1 đang ở ngoài phòng khách. Sau đó, P đi vào phòng ngủ lấy ma túy đá P cất giấu ở nền nhà cho vào coong thủy tinh sử dụng một phần. Sau khi sử dụng ma túy xong, P cầm bộ sử dụng ma túy ra phòng khách thì B1 đến xin P cùng sử dụng ma túy, P đồng ý. B1 sử dụng ma túy còn lại trong coong bằng hình thức hút. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày thì tổ công tác kiểm tra và do sợ bị phát hiện nên B1 đã cất giấu 01 chai nhựa màu trắng dán nhãn Sting màu vàng, nắp nhựa màu đen, trên nắp nhựa cắm 01 ống hút màu hồng, thân chai nhựa cắm 01 coong thủy tinh màu trắng ở gầm bàn thờ phòng khách. Cơ quan công an đã tiến hành lập biên bản, đưa các đối tượng về trụ sở để tiếp tục điều tra, làm rõ.

Vật chứng thu giữ của 08 đối tượng: 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa các tinh thể màu trắng KT 3x5cm;

Vật chứng thu giữ của Nguyễn Văn P: 01 túi nilon màu trắng KT 1,5x2cm đã qua sử dụng. Ngoài ra còn thu giữ của P 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s bản 32gb có IMEI: 355415076047738 và lắp sim số: 0971412758;

Vật chứng thu giữ của Dương Văn B1: 01 chai nhựa màu trắng dán nhãn Sting màu vàng, nắp nhựa màu đen, trên nắp nhựa cắm 01 ống hút nhựa màu hồng, thân chai nhựa cắm 01 coong thủy tinh màu trắng bị vỡ phần đầu coong, cổ chai buộc 01 sợi dây thép màu đen với coong thủy tinh (01bộ tẩu tự tạo).

Ngày 11-11-2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện G ra Lệnh khám xét khẩn cấp số 126 chỗ ở Nguyễn Văn P ở thôn 5, xã Đ, huyện G, thành phố Hà Nội nhưng không phát hiện thu giữ đồ vật tài liệu gì.

Tại kết luận giám định số 10088/KLGĐ-PC09 ngày 17-11-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilông là ma túy loại Methamphetamine khối lượng 3,948 gam; 01 túi nilong KT (1,5x2)cm có dính ma túy loại Methamphetamine.

Tại kết luận giám định số 10089/KLGĐ-PC09 ngày 17-11-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: 01 bộ tẩu hút tự tạo có dính ma túy loại Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số: 25/CT-VKSGL ngày 03-02-2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện G đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn P về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện Kiểm sát đã truy tố.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện G giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay thấy rằng: Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn P đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

- Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

- Về hình phạt: Đề nghị xử phạt bị cáo Phượng mức án từ 30 đến 36 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt 10-11-2020.

- Về hình phạt bổ sung: Không.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 3,948 gam Methamphetamine (đã trích mẫu giám định 0,311 gam còn 3,637 gam), 01 túi ni lông có dính Methamphetamine, 01 bộ tẩu hút tự tạo có dính Methamphetamnine; trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động Iphone 6S bên trong có lắp sim liên lạc đã qua sử dụng.

Nói lời sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện G, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện G, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn nhận tội và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng huyện G là hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, bản Kết luận định giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung bản cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện G đã truy tố.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 09- 11-2020, tại thôn 5, xã Đ, huyện G, thành phố Hà Nội, bị cáo Nguyễn Văn P có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy loại Methaphetamine, khối lượng 3,948 gam để sử dụng thì bị cơ quan Công an bắt giữ cùng vật chứng.

[3] Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn P đã có đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[4] Viện Kiểm sát nhân dân huyện G đề nghị truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

[5] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo đã cố ý trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy được Bộ luật Hình sự bảo vệ. Do vậy, cần phải nghiêm trị đối với bị cáo.

- Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

[6] Về tình tiết tăng nặng: Nhân thân của bị cáo chưa có tiền án tiền sự nên bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[8] Xét tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần phải xử phạt bị cáo một mức án tù trong khung hình phạt nhằm cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới có đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cùng xem xét giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo vì bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đã nhận định ở trên.

[9] Đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát về nhân thân của bị cáo, về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, về mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

- Về hình phạt bổ sung:

[10] Xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là có căn cứ.

- Về xử lý vật chứng:

[11] Thu giữ của bị cáo tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilông là ma túy loại Methamphetamine khối lượng 3,948 gam; 01 túi nilong có dính ma túy loại Methamphetamine, 01 bộ tẩu hút tự tạo có dính ma túy loại Methamphetamine là P tiện bị cáo dùng để thực hiện tội phạm nên cần cho tịch thu tiêu hủy là có căn cứ.

[12] Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s bản 32gb có IMEI: 355415076047738 và lắp sim số: 0971412758 là tài sản của Nguyễn Văn P không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo là có căn cứ.

- Về các vấn đề khác:

[13] Đối với người bán ma túy cho bị can Nguyễn Văn P do không xác định được nhân thân nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

[14] Đối Dương Văn B1 mặc dù không tham gia bàn bạc, góp tiền để mua ma túy cùng P nhưng có sử dụng ma túy nên Công an huyện G đã ra Quyết định xử phạt hành chính là có căn cứ.

[15] Đối với Nguyễn Văn H1, Bùi Văn C1, Dương Văn S, Nguyễn Văn T1, Nguyễn Văn L1, Hà Minh N1 không tham gia bàn bạc, không góp tiền để mua ma túy, không sử dụng ma túy nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện G không đặt vấn đề xử lý.

[16] Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave đeo BKS 29U9-1542 mà bị can P mượn thuộc sở hữu của anh Dương Văn S. Khi cho mượn xe, anh S không biết P sử dụng để đi mua ma túy nên cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý.

[17] Đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát về hình phạt bổ sung, về xử lý vật chứng và về các vấn đề khác là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

- Về án phí:

[18] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

- Về quyền kháng cáo:

[19] Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự:

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn P 36 (Ba mươi sáu) tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 10-11-2020.

2. Về hình phạt bổ sung: Không.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy 3,948 gam Methamphetamine (đã trích mẫu giám định 0,311 gam còn 3,637 gam); 01 túi ni lông có dính Methamphetamine, 01 bộ tẩu hút tự tạo có dính Methamphetamnine;

+ Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động Iphone 6S bên trong có lắp sim liên lạc đã qua sử dụng.

(Hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện G theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 01-3-2021).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Nguyễn Văn P phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

142
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 28/2021/HS-ST

Số hiệu:28/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về