Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 27/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LAI CHÂU, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 27/2022/HS-ST NGÀY 12/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 24/2022/TLST – HS ngày 10/3/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2022/QĐXXST-HS ngày 30/3/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Sùng A V; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam, sinh năm 1988 tại tỉnh Lai Châu; Nơi ĐKHKTT: Bản C, xã S, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 01/12; Dân tộc: H’Mông; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Con ông: Sùng A Ch (đã chết) và bà Hàng Thị D, sinh năm 1964; Vợ: Thần Thị H, sinh năm 1992; Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2014; Gia đình có 05 anh em, bị cáo là con thứ ba trong gia đình; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 28/12/2021 đến ngày 31/12/2021 bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã S, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nhận được tin báo của quần chúng nhân dân, hồi 08 giờ 30 phút ngày 28/12/2021, Tổ công tác của đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế - ma túy Công an thành phố Lai Châu đã tiến hành tuần tra, kiểm soát tại khu vực Km36+200, quốc lộ 4D, thuộc bản Mới, xã San Thàng, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu. Quá trình kiểm tra phát hiện Sùng A V có dấu hiệu phạm tội, yêu cầu kiểm tra thì V tự giác lấy từ trong lòng bàn tay trái ra giao nộp cho Tổ công tác 01 gói được gói bên ngoài bằng một mảnh nilon màu hồng, bên trong là chất bột màu trắng và khai nhận gói chất bột màu trắng V giao nộp là ma túy, loại Heroine, do V mua hộ một người đàn ông tên T (V không biết họ, địa chỉ), mục đích để được T cho sử dụng cùng. Quá trình điều tra, xác định hành vi phạm tội của Sùng A V như sau:

Vào khoảng 07 giờ 30 phút ngày 28/12/2021, Sùng A V một mình đi bộ từ nhà tại bản C, xã S, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu đến xã Tả Lèng, huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu. Khi đi đến ngã tư đèn xanh, đèn đỏ gần bến xe khách tỉnh Lai Châu,V gặp một người đàn ông tên T (là người quen của V nhưng V không biết họ, địa chỉ của T) đang đứng ở khu vực đèn xanh, đèn đỏ. Sau đó, T hỏi và nhờ V đi mua Heroine hộ T, nếu mua được T sẽ cho V sử dụng cùng, V đồng ý. T đưa cho V 200.000 VNĐ và bảo V nếu mua được Heroine thì đến khu vực đường 58m, chỗ vòng xuyến đi về xã San Thàng đưa cho T. V cầm tiền rồi đi đến nhà Vũ Xuân Đ – sinh năm 1967, trú tại: Tổ 26, phường Đông Phong, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu để mua Heroine. Đến nơi, Đ không có nhà mà chỉ có Hà Thị O – sinh năm 1970, trú tại: Bản Thành Công, xã San Thàng, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu (hiện đang sống chung với Vũ Xuân Đ như vợ chồng tại nhà của Đ) đang ở nhà. V hỏi và mua được của O 01 gói Heroine, được gói bên ngoài bằng một mảnh nilon màu hồng với giá 200.000 VNĐ. Mua được Heroine, V đi bộ đến điểm hẹn để đưa cho T. Hồi 08 giờ 30 phút ngày 28/12/2021, V đi đến Km36+200, quốc lộ 4D thuộc bản Mới, xã San Thàng, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lai Châu phát hiện bắt quả tang, thu giữ 01 gói Heroine có đặc điểm như trên ở trong lòng bàn tay trái của V.

Tại Kết luận giám định số 45/KLGĐ ngày 28/12/2021 của Người giám định tư pháp theo vụ việc và Kết luận giám định số 70/GĐ-KTHS ngày 30/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ của Sùng A V có khối lượng là 0,12 gam, mẫu chất bột màu trắng gửi giám định là ma túy, loại Heroine.

Vật chứng thu giữ:

0,12 gam Heroine thu giữ của Sùng A V đã gửi toàn bộ làm mẫu giám định tại Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu, không hoàn lại mẫu vật gửi giám định.

01 (một) mảnh nilon màu hồng và 01 (một) vỏ phong bì niêm phong vật chứng trong quá trình bắt quả tang. Hiện đang được niêm phong và bảo quản tại kho vật chứng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu chuyển Chi cục thi hành án dân sự thành phố Lai Châu để xử lý theo quy định.

Cáo trạng số 07/CT- VKSTP, ngày 10/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu đã truy tố Sùng A V về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

* Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Sùng A V về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy " quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đề nghị áp dụng tại điểm c khoản 1 Điều 249, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Sùng A V mức án từ 12 tháng đến 18 tháng tù (Khấu trừ thời gian tạm giữ trước đó cho bị cáo). Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào chấp hành án.

Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;

điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên:

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) mảnh nilon màu hồng và 01 (một) vỏ phong bì niêm phong vật chứng trong quá trình bắt quả tang.

Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo Sùng A V khai nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố đối với bị cáo.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên rất hối hận, ăn năn hối cải và mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai đã khai báo tại cơ quan điều tra về quá trình thực hiện hành vi phạm tội, cũng như vật chứng thu giữ trong vụ án và nội dung Cáo trạng truy tố đối với bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 08 giờ 30 phút ngày 28/12/2021, tại khu vực Km36+200, quốc lộ 4D thuộc bản Mới, xã San Thàng, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu, bị cáo Sùng A V đang tàng trữ trái phép 0,12 gam Heroine ở trong lòng bàn tay trái của mình mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lai Châu phát hiện bắt quả tang, thu giữ. Bị cáo Sùng A V là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc Tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Do vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự;

Điều luật quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...............

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

.................

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Vì vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội thì thấy:

Vụ án có tính chất nghiêm trọng, hành vi mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tới sự độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Chúng ta đều biết ma túy là chất gây nghiện độc hại phá hủy trực tiếp hệ thần kinh trung ương của người sử dụng, làm cho họ phụ thuộc vào chất ma túy, hủy hoại sức khỏe của những người sử dụng, làm cho họ dần dần không còn khả năng lao động và sinh sống bình thường và làm khánh kiệt kinh tế của gia đình. Việc sử dụng ma túy còn làm cho người sử dụng không thể điều khiển được hành vi của mình và có thể dẫn đến các hành vi nguy hiểm cho bản thân và cho xã hội. Vì vậy Đảng và Nhà nước ta đã và đang tích cực phòng chống để đẩy lùi và loại trừ ma tuý ra khỏi đời sống xã hội. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy gây ra và để thỏa mãn cho nhu cầu của bản thân bị cáo đã bất chấp các quy định của pháp luật cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do đó cần có mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện để có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời nhằm răn đe và phòng ngừa chung trong xã hội. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cần xem xét toàn diện về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo.

[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng:

Về nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự thì bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, hoàn cảnh kinh tế khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[6] Đối với đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

[7] Về vật chứng vụ án:

Đối với 0,12 gam Heroine thu giữ của Sùng A V, Cơ quan điều tra đã gửi toàn bộ đi giám định, sau giám định không hoàn lại mẫu vật gửi giám định, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

01 (một) mảnh nilon màu hồng và 01 (một) vỏ phong bì niêm phong vật chứng trong quá trình bắt quả tang. Xét đây là công cụ phạm tội không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[8] Vấn đề liên quan:

Theo lời khai của Sùng A V, nguồn gốc số Heroine Cơ quan điều tra thu giữ của V trong quá trình bắt người phạm tội quả tang là do V mua của Hà Thị O tại nhà của Vũ Xuân Đ ở Tổ 26, phường Đông Phong, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu. Kết quả điều tra O không thừa nhận việc này, trong hồ sơ ngoài lời khai của V không có tài liệu khác để chứng minh nên không đủ căn cứ để điều tra, xử lý đối với Hà Thị O về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại Điều 251 Bộ luật hình sự.

Đối với người đàn ông tên T là người đã đưa 200.000 VNĐ cho V để V đi mua Heroine hộ, do V không biết họ, tuổi, địa chỉ của T, ngoài lời khai của V, Cơ quan điều tra không thu thập được tài liệu khác về T, do vậy không đủ căn cứ để xác minh, điều tra, làm rõ.

[9] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106, Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Sùng A V phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Sùng A V 12 (Mười hai) tháng tù (Bị cáo được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 28/12/2021 đến ngày 31/12/2021 là 03 ngày), còn lại bị cáo phải chấp hành là 11 (Mười một) tháng 27 (Hai mươi bảy) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào chấp hành án.

3. Về vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong được làm bằng một phong bì công văn do Công an thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu phát hành dán kín các mép. Vật chứng còn lại sau khi lấy mẫu gửi giám định thu giữ của Sùng A V, trong quá trình bắt quả tang, ngày 28/12/2021.

(Tình trạng, đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/3/2022, giữa Công an thành phố Lai Châu và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lai Châu).

4. Về án phí: Buộc bị cáo Sùng A V phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án cấp trên trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

109
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 27/2022/HS-ST

Số hiệu:27/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lai Châu - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về