Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 27/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 27/2021/HS-ST NGÀY 30/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30/9/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai, vụ án hình sự thụ lý số: 42/2021/TLST-HS ngày 06 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2021/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Phan Đình Q, sinh năm 1995 tại huyện A, tỉnh Kiên Giang; nơi cư trú: Ấp N, xã Đ, huyện A, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hoá: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Văn L, sinh năm 1955 và bà Lê Thị T, sinh năm 1963; có vợ Trần Thị Kim A, sinh năm 1997 và có 02 con, lớn nhất sinh năm 2014, nhỏ nhất sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tốt; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an huyện An Biên từ ngày 28/4/2021 cho đến nay. Có mặt 

2. Họ và tên: Nguyễn Văn T, sinh năm 1999 tại huyện A, tỉnh Kiên Giang; nơi cư trú: Ấp T, xã Đ, huyện A, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: Ngư phủ; trình độ văn hoá: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1971 và bà Trần Kim L, sinh năm 1971; có vợ Ngô Thị Tường V, sinh năm 2002; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tốt; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an huyện An Biên từ ngày 28/4/2021 cho đến nay. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sau khi thỏa thuận qua điện thoại để mua ma túy của đối tượng Cù Lự (không rỏ nhân thân lai lịch) với gía 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Thì vào khoảng 18 giờ ngày 28/4/2021, Phan Đình Q điều khiển xe mô tô Wave màu xanh biển kiểm soát 68 L1 -01687, rủ Nguyễn Văn T đi Cầu Bàu Môn mua ma túy để cùng nhau sử dụng, T đồng ý rồi cùng đi đến gần Chợ Thứ Ba ghé tiệm tạp hóa mua thuốc để đổi tiền, sau đó đưa cho T 300.000 đồng để T trã tiền mua ma túy. T nhận tiền bỏ vào túi quần, rồi cùng nhau đến Nhà trọ Ba Dũng ấp Xẽo Rô, xã Hưng Yên gặp Cù Lự, Lự đưa gói thuốc HERO trong đó có chất ma túy, nhận được ma túy T điều khiển xe chở Q về, khi qua cầu Bàu Môn Q lấy ma túy ra giấu dưới bàn chân bên phải và quăng bỏ bao thuốc. Đến khu phố 5, thị trấn Thứ Ba bị Công an huyện An Biên mời Q và T về trụ sở Công An huyện tiến hành kiểm tra bắt quả tang và thu giữ trên ngườ của Q 01 (Một) bịch nylon được hàn kín, kích thước 03cm x 1,5cm bên trong chứa các hạt tinh thể trong suốt không đồng nhất nghi là ma túy.

Tại Kết luận giám định số 449/KL-KTHS ngày 04/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang kết luận: Các hạt tinh thể trong suốt, không đồng nhất đựng trong 01 (Một) bịch nylon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine (Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT 323, Nghị định 73/2018/NĐ-CP, ngày 15/5/2018 của Chính phủ). Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,3412 gam.

Vật chứng của vụ án gồm: 01 (một) bịch nylon được hàn kín có kích thước khoảng 03 cm x 1,5 bên trong chứa các hạt tinh thể trong suốt không đồng nhất; 01 (một) mô tô biển nhãn hiệu NAGAKI, số loại WAVE màu xanh, biển kiểm soát 68L1-016.87, số khung RL1WWCH9UM6B117482, số máy VUMIG150FMH117482.

Tại bản Cáo trạng số 45/CT-VKSHAB ngày 27/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang đã truy tố bị cáo Phan Đình Q và Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về tội danh, tuyên bố bị cáo Phan Đình Q và Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Về hình phạt:

Áp dụng khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17 và Điều 38 Bộ luật Hình sự tuyên xử bị cáo Phan Đình Q từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm tù;

Áp dụng khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17 và Điều 38 Bộ luật Hình sự tuyên xử bị cáo Phan Đình Q từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm tù;

- Về biện pháp tư pháp: Đề nghị áp dụng Điều 47, 48 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Tch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 (Một) mô tô biển nhãn hiệu NAGAKI, số loại WAVE màu xanh, biển kiểm soát 68L1-016.87, số khung RL1WWCH9UM6B117482, số máy VUMIG150FMH117482;

Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) túi giấy màu trắng được niêm phong có chữ ký của Giám định viên Thái Thị Thanh Thủy, người chứng kiến Nguyễn Văn Đủ, có hình dấu tròn đỏ ghi chữ Phòng Kỹ Thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang niêm phong mẫu vật, vụ số 449/2021. Theo Kết luận Giám định số 449/KL-KTHS, ngày 04/5/2021 của Phòng Kỹ Thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang, bên trong túi giấy chứa các hạt tinh thể trong suốt, không đồng nhất trong 01 (Một) bịch nylon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,412 gam. Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng là 0,3184 gam và bao gói đựng mẫu được niêm phong trong 01 (Một) phong bì có ký hiệu vụ số: 449/2021.

Bị cáo Phan Đình Q và Nguyễn Văn T trình bày: Thừa nhận hành vi phạm tội, không có ý kiến tranh luận.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Đã biết sai, xin giảm nhẹ hình phạt để sớm về lo cho gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau: [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện An Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà các bị cáo, những người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi thực hiện tội phạm: Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa đã làm Phan Đình Q điều khiển xe mô tô Wave màu xanh biển kiểm soát 68 L1 -01687, rủ Nguyễn Văn T đến Cầu Bàu Môn mua ma túy để cùng sử dụng. Đến điểm hẹn gặp Cù Lự, Lự đưa gói thuốc HERO trong đó có chất ma túy cho Q cất giấu rồi, Q đưa cho T 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) để trả tiền mua ma túy và điều khiển xe về đến khu phố 5, thị trấn Thứ Ba bị Công an huyện An Biên kiểm tra bắt quả tang thu giữ trên người của Q 01 bịch chứa ma túy đá loại Methamphethamine có khối lượng theo kết luận giám định là 0,3412 gam nên hành vi của các bị cáo đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xét về hành vi phạm tội của các bị cáo đã cùng thực hiện hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” với lỗi cố ý trực tiếp nên được xác định là đồng phạm. Tuy nhiên, các bị cáo không có sự câu kết chặt chẽ, không có sự phân công nhiệm vụ rõ ràng, chỉ đơn thuần cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội nên chỉ là đồng phạm giản đơn nên không thuộc trường hợp phạm tội có tổ chức. Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên truy tố bị cáo Phan Đình Q và Nguyễn Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Hành vi của các bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi pháp luật cấm và vi phạm pháp luật nhưng chỉ vì ham chơi, đua đòi mà các bị cáo đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích để sử dụng trái phép. Các bị cáo biết rõ tác hại của việc sử dụng trái phép sẽ gây ra nhiều hệ lụy cho xã hội, gây ảnh hưởng sức khỏe, kinh tế, còn là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm và hành vi vi phạm pháp luật khác, làm mất an ninh trật tự xã hội và bất bình trong nhân dân. Do đó, cần xử các bị cáo một mức án nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả các bị cáo đã gây ra để các bị cáo có đủ thời gian cải tạo, giáo dục trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội, đồng thời cũng nhằm phòng ngừa chung cho những người khác có ý định tương tự như các bị cáo.

Đối với Cù Lự (chưa rõ lai lịch) là người bán ma túy cho Phan Đình Q và Nguyễn Văn T, Cơ quan Điều tra Công an huyện An Biên tiếp tục điều tra, xác minh rõ sẽ xử lý sau.

[3] Xét về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại tòa hôm nay, các bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn khai báo, tỏ ra biết ăn năn hối cải. Do đó, cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét khi quyết định hình phạt cho các bị cáo.

[4] Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47, 48 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Tch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 (Một) mô tô biển nhãn hiệu NAGAKI, số loại WAVE màu xanh, biển kiểm soát 68L1-016.87, số khung RL1WWCH9UM6B117482, số máy VUMIG150FMH117482 Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) túi giấy màu trắng được niêm phong có chữ ký của Giám định viên Thái Thị Thanh Thủy, người chứng kiến Nguyễn Văn Đủ, có hình dấu tròn đỏ ghi chữ Phòng Kỹ Thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang niêm phong mẫu vật, vụ số 449/2021. Theo Kết luận Giám định số 449/KL-KTHS, ngày 04/5/2021 của Phòng Kỹ Thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang, bên trong túi giấy chứa các hạt tinh thể trong suốt, không đồng nhất trong 01 (Một) bịch nylon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,412 gam. Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng là 0,3184 gam và bao gói đựng mẫu được niêm phong trong 01 (Một) phong bì có ký hiệu vụ số: 449/2021.

[5] Xét ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên là có cơ sở. Tuy nhiên, về mức hình phạt Hội đồng xét xử thống nhất xử các bị cáo với mức thấp hơn mức đề nghị của Kiểm sát viên cũng đủ tính răn đe đối với các bị cáo.

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Phan Đình Q và Nguyễn Văn T phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tuyên bố bị cáo Phan Đình Q và Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Về hình phạt:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17 và Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Phan Đình Q 01 (một) năm tù, thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 28/4/2021.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17 và Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 01 (một) năm tù, thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 28/4/2021.

2. Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47, 48 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Tch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 (Một) mô tô biển nhãn hiệu NAGAKI, số loại WAVE màu xanh, biển kiểm soát 68L1-016.87, số khung RL1WWCH9UM6B117482, số máy VUMIG150FMH117482;

Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) túi giấy màu trắng được niêm phong có chữ ký của Giám định viên Thái Thị Thanh Thủy, người chứng kiến Nguyễn Văn Đủ, có hình dấu tròn đỏ ghi chữ Phòng Kỹ Thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang niêm phong mẫu vật, vụ số 449/2021. Theo Kết luận Giám định số 449/KL-KTHS, ngày 04/5/2021 của Phòng Kỹ Thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang, bên trong túi giấy chứa các hạt tinh thể trong suốt, không đồng nhất trong 01 (Một) bịch nylon được niêm phong gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine. Khối lượng mẫu gửi giám định là 0,412 gam. Mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng là 0,3184 gam và bao gói đựng mẫu được niêm phong trong 01 (Một) phong bì có ký hiệu vụ số: 449/2021.

Theo quyết định chuyển giao vật chứng số 35/QĐ-VKS-HS ngày 02/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang.

3. Về án phí:

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Phan Đình Q và Nguyễn Văn T mỗi bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

4. Quyền kháng cáo:

Các bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trưng hợp Bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành bản án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

361
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 27/2021/HS-ST

Số hiệu:27/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về