Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 270/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 270/2023/HS-ST NGÀY 15/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 11 năm 2023, tại Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 355/2023/TLST-HS, ngày 23 tháng 10 năm 2023; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 372/2023/QĐXXST-HS, ngày 02 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Đức B, sinh năm 1999, tại tỉnh Đắk Lắk. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi; nơi ở: Không ổn định; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông (không rõ) và bà Hồ Thị Quỳnh N; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không có; bị bắt tạm giữ ngày 04-7-2023 (tính theo Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an phường B, quận B lập lúc 21 giờ 10 phút ngày 04-7-2023 và kết thúc lúc 21 giờ 50 phút cùng ngày), tạm giam ngày 11-7-2023 “có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 20 giờ 55 phút ngày 04/7/2023, Tổ công tác 363-Công an quận B cùng với Công an phường B B tuần tra đến trước nhà số D, đường B, phường B, quận B thì nhìn thấy anh Trần Minh K đang điều khiển xe môtô biển số 76C1- xxxxx chở Nguyễn Đức B chạy trên đường có biểu hiện nghi vấn nên ra hiệu dừng xe lại để kiểm tra. Qua kiểm tra, đã phát hiện và thu giữ từ trong lòng bàn tay trái của B đang cầm nắm 01 gói nylon chứa tinh thể không màu và khi đó, B cho biết là ma túy loại “hàng đá” của riêng B nên đưa tất cả đến Công an phường B xử lý người có hành vi phạm tội quả tang rồi chuyển cho Cơ quan điều tra giải quyết theo thẩm quyền. Tại đây, B đã khai nhận: Do nghiện ma túy nên lúc khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, B đến hẻm S, đường B, phường B, quận B mua gói ma túy trên của người thanh niên (không rõ lai lịch) với giá 200.000 đồng để sử dụng rồi sau đó, B mới đến chợ B1 gặp, giao xe cho anh K chở đi ăn khuya và khi trên đường đi thì bị Công an kiểm tra bắt giữ. Riêng anh K khai, không biết và cũng không liên quan gì đến ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2101g, loại Methamphetamine của B. Do lời khai của anh K hoàn toàn phù hợp với lời khai của B cùng với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ nên anh K không bị xử lý hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Đức B khai nhận: Do nghiện ma túy nên bị cáo có đến hẻm S, đường B, phường B, quận B mua gói ma túy loại “hàng đá” của người thanh niên (không rõ lai lịch) với giá 200.000 đồng để sử dụng rồi mới đến chợ B1 gặp, giao xe cho anh Trần Minh K chở đi ăn khuya và khi trên đường đi thì bị Công an kiểm tra bắt giữ. Riêng anh K, không biết và cũng không liên quan gì đến ma túy của bị cáo nên nay bị cáo thừa nhận chỉ có một mình bị cáo thực hiện hành vi phạm tội đúng như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Đồng thời, không có ý kiến gì về khối lượng ma túy đã giám định và việc giải quyết vật chứng.

Tại Cáo trạng số: 305/CT-VKS, ngày 12 tháng 10 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Đức B ra trước Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh để xét xử về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận có ý kiến: Bị cáo Nguyễn Đức B đã có hành vi cất giữ số ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2101g, loại Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy nên cần phải xử bị cáo với mức án thật nghiêm. Tuy nhiên, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nghĩ nên xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu. Do đó, giữ nguyên quyết định đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo với mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm 06 tháng tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”. Về vật chứng, đề nghị giao trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme và tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong bên trong có ma túy đã giám định.

Bị cáo không tranh luận và bào chữa gì về hành vi đã bị truy tố, còn lời nói sau cùng thì xin giảm nhẹ mức hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra-Công an quận B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo Nguyễn Đức B tại phiên tòa hôm nay cho thấy: Vào lúc 20 giờ 55 phút ngày 04/7/2023, tại trước nhà số D, đường B, phường B, quận B. Bị cáo đã có hành vi cất giữ 01 gói nylon chứa tinh thể không màu nhằm mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang. Theo Kết luận giám định số: 7333/KL-KTHS, ngày 13/7/2023 của Phòng K1-Công an Thành phố H thì, “Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Đức B, Nguyễn Văn D (người chứng kiến), Võ Vũ T1 (Điều tra viên) và hình dấu Công an phường B, quận B”, gửi đến giám định “là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,2101g, loại Methamphetamine”. Do đó, bị cáo Nguyễn Đức B đã phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai trước đây tại Cơ quan điều tra, lời khai của những người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ được, biên bản niêm phong, mở niêm phong, kết luận giám định khối lượng ma túy…nên đã đủ chứng cứ buộc tội bị cáo và mức án đề nghị của Kiểm sát viên vừa nêu trên là có cơ sở chấp nhận. Riêng đối với anh Trần Minh K, do không biết và cũng không liên quan gì đến hành vi phạm tội của bị cáo nên anh K không bị xử lý hình sự là có căn cứ; tuy nhiên, do theo kết quả xét nghiệm dương tính với chất ma túy nên đã bị Trưởng Công an phường B, quận B ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Còn đối với người thanh niên bán ma túy cho bị cáo, do không rõ lai lịch nên Cơ quan điều tra còn đang tiếp tục truy xét đến khi nào phát hiện được sẽ xử lý sau.

[4] Xét chất ma túy là loại chất kích thích do Nhà nước độc quyền quản lý, nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển và mua bán. Bị cáo nhận thức được việc làm của mình là sai và vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, mang tính chất liều lĩnh, xem thường pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương và có thể là nguyên nhân dẫn đến các loại tội phạm khác nên cần phải xử bị cáo với mức án thật nghiêm thì mới có đủ sức giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên, tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần được xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng”; do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, bị cáo làm nghề nghiệp tự do và không có điều kiện kinh tế nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: Đối với chiếc xe môtô biển số 76C1-xxxxx mà bị cáo sử dụng làm phương tiện đi mua ma túy do mẹ của bị cáo là bà Hồ Thị Quỳnh N đứng tên sở hữu và không có lỗi trong việc cho bị cáo mượn xe, Cơ quan điều tra đã thu hồi giao trả lại cho bà N nên không xét. Còn 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme, số thuê bao 039939xxxx của bị cáo, do không liên quan gì đến hành vi phạm tội nên cần giao trả lại cho bị cáo. Riêng 01 gói niêm phong bên trong có ma túy đã giám định; bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Đức B, Nguyễn Văn D (Người chứng kiến), Võ Vũ T1 (Điều tra viên) và hình dấu CA P BHH B, B là chất kích thích, Nhà nước cấm sử dụng nên cần tịch thu để tiêu hủy.

[7] Bị cáo Nguyễn Đức B phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về căn cứ điều luật và xử phạt:

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức B 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 04-7-2023.

2. Về vật chứng: Căn cứ vào Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

- Giao trả lại cho bị cáo Nguyễn Đức B 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme, số thuê bao 039939xxxx.

- Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong bên trong có ma túy đã giám định; bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Đức B, Nguyễn Văn D (Người chứng kiến), Võ Vũ T1 (Điều tra viên) và hình dấu CA P BHH B, B.

(Vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Tân đang tạm giữ theo Phiếu nhập kho số: NK24/03TAM, ngày 02/10/2023)

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Nguyễn Đức B phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào các điều 331 và 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

Bị cáo Nguyễn Đức B có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

11
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 270/2023/HS-ST

Số hiệu:270/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Tân - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về