Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 26/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 26/2022/HS-ST NGÀY 22/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương mở phiên tòa xét xử công khai theo hình thức trực tuyến tại hai điểm cầu Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên và Nhà Tạm giữ Công an huyện Bắc Tân Uyên đối với vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 26/2022/TLST-HS ngày 04 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2022/QĐXXST-HS, ngày 08 tháng 4 năm 2022, đối với bị cáo:

Huỳnh Ngọc T (Tên gọi khác: U), sinh năm: 1988, tại tỉnh Bình Dương; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Khu phố Z, phường U, thị xã T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Văn T và bà Nguyễn Thị Bích N; bị cáo có vợ và 02 con, lớn nhất sinh năm 2009, nhỏ nhất sinh năm 2012; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 04/6/2019, bị Công an phường An Phú, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương xử phạt về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, chưa chấp hành đóng phạt; nhân thân: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 28/12/2021 đến ngày 07/01/2022 chuyển sang tạm giam cho đến nay. Bị cáo có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Chị Huỳnh Ngọc T1, sinh năm: 1992 (em ruột bị cáo), địa chỉ cư trú: Khu phố Z, phường U, thị xã T, tỉnh Bình Dương – Có mặt.

2. Chị Đỗ Thị T, sinh năm: 1997; địa chỉ cư trú: Ấp T, xã T, huyện G, tỉnh Kiên Giang – Vắng mặt.

- Người làm chứng: Anh Lê Minh T, anh Trịnh Bảo A và chị Nguyễn Thị Kim N đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 00, ngày 27/12/2021, Huỳnh Ngọc T điều khiển xe mô tô biển số 68G1-611.xx đi từ thị xã T, tỉnh Bình Dương đến khu vực ngã tư G, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh để tìm mua ma túy đá về sử dụng. Khi đến ngã tư G, T gặp một người đàn ông chạy xe Grab (không rõ họ, tên lai lịch) hỏi mua 1.000.000đ và được người này đồng ý bảo T đứng đợi. Người đàn ông bỏ đi một lúc rồi quay lại giao cho T một túi nylon hàn kín bên trong chứa ma túy được ngụy trang bên ngoài bằng tờ tiền giấy loại 2.000đ (Hai nghìn đồng). Sau khi trả tiền và nhận ma túy xong người đàn ông bỏ đi còn T cất gói ma túy vào trong người đi tìm nhà nghỉ để qua đêm. T đến thuê nhà nghỉ gần khu vực ngã tư G (Không nhớ tên nhà nghỉ, địa chỉ cụ thể) và tại đây, T lấy ra một ít sử dụng và ngủ lại đến 10 giờ sáng ngày 28/12/2021 thì trả phòng và quay xe về Bình Dương. Trong lúc T điều khiển xe mô tô biển số 68G1-611.xx trở về Bình Dương thì có cuộc gọi đến từ chị Nguyễn Thị Kim N là bạn của T nhờ T đến phường T, thị xã T chở giúp N về nhà trọ tại thị trấn T, huyện B thì T đồng ý. Khi đón và chở N về thị trấn T, huyện B đến đoạn đường ĐH 411 thuộc Khu phố Z, thị trấn T, huyện B, tỉnh Bình Dương thì bị lực lượng tuần tra Công an thị trấn T dừng xe kiểm tra. Qua kiểm tra, phát hiện trong túi áo khoác màu xanh bên trái T đang mặc trên người có 01 gói ny lon, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, T khai nhận là ma túy đá nên Công an thị trấn T lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng, đưa T, N và phương tiện về trụ sở làm rõ.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 (Một) gói ny lon được hàn kín, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng đã được niêm phong;

- 01 (Một) tờ tiền giấy mệnh giá 2.000đ (Hai nghìn đồng);

- 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại Wave RSX màu đen, biển số 68G1-611.xx, số máy JA38E-0275400, số khung RLHJA3811GY128355;

- 01 (Một) điện thoại di động màu vàng, mặt sau có chữ Iphone;

- 01 (Một) bản photocoppy giấy chứng minh nhân dân số 371751022 mang tên Đỗ Thị T.

Tại Bản kết luận giám định số 40/MT-PC09, ngày 04/01/2022 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương đã kết luận: Tinh thể màu trắng trong 01 gói nylon hàn kín, trọng lượng 1,8525 gam gửi giám định là ma túy loại Methamphetamine.

Cáo trạng số 29/CT-VKS-BTU, ngày 04/4/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương đã truy tố Huỳnh Ngọc T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung truy tố không thay đổi, bổ sung gì khác; đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Huỳnh Ngọc T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo T mức án từ 18 tháng đến 22 tháng tù; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy vật cấm lưu hành là gói ma túy loại methamphetamine, trọng lượng 1,7286 gam (sau khi giám định) đã được Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương niêm phong trong phong bì ghi số 40/MT-PC09; tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước các công cụ, phương tiện sử dụng vào việc phạm tội gồm: 01 (Một) tờ tiền giấy loại 2.000đ; trả lại cho bị cáo và chị Huỳnh Ngọc T1 các đồ vật không liên quan đến việc phạm tội: Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động màu vàng, mặt sau có chữ Iphone, trả lại cho chị T1 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave RSX màu đen, biển số 68G1-611.xx.

Bị cáo nhận tội, không tranh luận về tội danh, mức hình phạt theo lời luận tội của đại diện Viện Kiểm sát, bị cáo không bào chữa gì khác. Bị cáo nói lời sau cùng xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các hành vi, quyết định của Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ có liên quan trong vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng huyện Bắc Tân Uyên, do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về việc vắng mặt của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Đỗ Thị T và những người làm chứng. Việc vắng mặt của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và người làm chứng không ảnh hưởng đến kết quả giải quyết vụ án. Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát, bị cáo không ai đề nghị hoãn phiên tòa để triệu tập người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng nói trên. Căn cứ Điều 292 và Điều 293 của Bộ luật Tố tụng Hình sự, Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[3] Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Huỳnh Ngọc T đã thành khẩn khai nhận tội như nội dung cáo trạng Viện Kiểm sát đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, đồ vật, chứng cứ khác đã thu thập có tại hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ kết luận: Lúc 23 giờ 00 ngày 28/12/2021, tại đoạn đường ĐH 411 thuộc Khu phố Z, thị trấn T, huyện B, tỉnh Bình Dương, Huỳnh Ngọc T đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy loại Methamphetamine có trọng lượng 1,8525 gam được đựng trong túi nylon hàn kín, gói trong tờ tiền giấy mệnh giá 2.000đ để ngụy trang và cất giấu trong túi áo khoác cá nhân đang mặc trên người đã bị lực lượng chức năng phát hiện thu giữ. Hành vi nói trên do bị cáo T thực hiện đã hội đủ các yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do vậy, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên truy tố và luận tội đối với bị cáo T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy và chất gây nghiện khác. Việc sử dụng ma túy sẽ gây tác hại không nhỏ đến tâm lý, sức khỏe đối với bản thân người sử dụng dẫn đến hành động không tự chủ và là nguyên nhân gây nên các tội phạm nguy hiểm khác cho xã hội. Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đã trên 18 tuổi có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo đã từng sử dụng ma túy và bị Công an phường An Phú, thành phố Thuận An xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên bị cáo ý thức được hành vi tàng trữ ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật hình sự nhưng vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng cần phải xem xét xử lý nghiêm mới có tác dụng răn đe, phòng ngừa tội phạm đồng thời bị cáo ý thức được sự trừng trị của pháp luật đối với các tội phạm về ma túy có hướng cải tạo tốt, tái hòa nhập xã hội sau thời gian chấp hành án.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhân thân đối với bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo có 01 tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (năm 2019), chưa được xóa nên thuộc trường hợp có nhân thân xấu. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn ăn, hối cải nên cần áp dụng quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy rõ sự nhân đạo của Nhà nước đối với người phạm tội biết hối hận hành vi phạm tội và ăn ăn, hối cải về hành vi do chính bị cáo gây ra.

[6] Tội danh, mức hình phạt, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo do đại diện Viện Kiểm sát đề nghị tại phiên tòa là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Đối với người đàn ông chạy xe ôm công nghệ (Grab), không rõ nhân thân lai lịch đã bán ma túy cho bị cáo tại khu vực ngã tư G, thuộc địa bàn Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh, cơ quan điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên đã thông báo đến cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh để điều tra, xử lý theo thẩm quyền là đúng quy định nên không đặt ra xem xét.

[8] Đối với Nguyễn Thị Kim N là bạn của bị cáo đi nhờ xe của bị cáo từ phường T, thị xã T đến thị trấn T, huyện B. Trên đường đi, chị N không biết bị cáo đã tàng trữ ma túy trong người để sử dụng nên không có căn cứ xử lý đối với Nguyễn Thị Kim N.

[9] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

- Đối với 01 bì thư đã được Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương niêm phong ghi số 40/PC09 bên trong chứa chất ma túy loại Methamphetamine, có trọng lượng sau giám định là 1,7286 gam là chất cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với tờ tiền giấy mệnh giá 2.000đ đã thu giữ cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 điện thoại di động màu vàng, phía mặt sau có chữ Iphone là tài sản cá nhân của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

- Đối với xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại Wave RSX màu đen, biển số 68G1- 611.xx, số máy JA38E-0275400, số khung RLHJA3811GY128355: Qua tra cứu xe mô tô trên do bà Đỗ Thị T, có địa chỉ thường trú tại ấp T, xã T, huyện G, tỉnh Kiên Giang, hiện bà Đỗ Thị T đã bỏ địa phương đi đâu không rõ, không triệu tập được. Ngày 11/10/2021, chị Huỳnh Ngọc T1 đã mua lại xe mô tô nói trên tại Cửa hàng mua bán xe cũ tại phường H, thị xã T (không rõ địa chỉ cụ thể) với số tiền 11.000.000đ. Khi mua bán, cửa hàng xe bàn giao cho chị T bản chính giấy đăng ký xe mô tô mang tên Đỗ Thị T và 01 bản photocopy chứng minh nhân dân tên Đỗ Thị T. Chị T1 cho bị cáo mượn xe mô tô làm phương tiện đi lại làm ăn, bị cáo sử dụng xe mô tô trên làm phương tiện đến Thành phố Hồ Chí Minh mua ma túy về sử dụng chị T1 không biết nên xử lý trả lại xe mô tô biển số 68G1-611.xx cho chị Huỳnh Ngọc T1.

[10] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 47, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

- Áp dụng khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136, khoản 1, 4 Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Huỳnh Ngọc T (Tên gọi khác là U), phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

- Xử phạt bị cáo Huỳnh Ngọc T 22 (Hai mươi hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/12/2021.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bì thư đã được Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương niêm phong ghi số 40/PC09 bên trong chứa chất ma túy loại Methamphetamine, có trọng lượng sau giám định là 1,7286 gam.

- Tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước: 01 (Một) tờ tiền giấy mệnh giá 2.000đ (Hai nghìn đồng).

- Trả lại cho bị cáo Huỳnh Ngọc T: 01 (Một) điện thoại di động màu vàng, mặt sau có chữ Iphone.

- Trả lại cho chị Huỳnh Ngọc T1 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại Wave RSX màu đen, biển số 68G1-611.xx, số máy JA38E-0275400, số khung RLHJA3811GY128355.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/4/2022 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Bắc Tân Uyên và Giấy nộp tiền ngày 06/4/2022).

4. Về án phí Hình sự sơ thẩm: Bị cáo Huỳnh Ngọc T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

5. Bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Huỳnh Ngọc T1 được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 26/2022/HS-ST

Số hiệu:26/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về