Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 26/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 26/2020/HS-ST NGÀY 31/03/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 3 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 28/2020/TLST-HS ngày 16/3/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2020/QĐXXST-HS ngày 19/3/2020 đối với bị cáo:

Nguyn Văn P. Sinh ngày 07/2/1995 tại S, Tuyên Quang.

Nơi cư trú: Thôn T, xã H, huyện S, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch:Việt Nam; bố đẻ: Nguyễn Văn H1, sinh năm 1961; mẹ đẻ: Nguyễn Thị T1, sinh năm 1969; vợ, con: Chưa có.

Tiền án: Có 01 tiền án.

+ Bản án số 41 ngày 20/6/2017 của Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang xử phạt Nguyễn Văn P 01 năm 06 tháng tù về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngày 24/10/2018 chấp hành xong toàn bộ bản án.

Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/01/2020 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 20 phút ngày 06/01/2020, Tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Sơn Dương đang làm nhiệm vụ tại đoạn đường liên thôn thuộc thôn T2, xã K, huyện S, tỉnh Tuyên Quang thì phát hiện Nguyễn Văn P có biểu hiện nghi vấn tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác yêu cầu Nguyễn Văn P đến trụ sở Uỷ ban nhân dân xã K để làm việc, tại đây Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với P về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ tại túi quần trước bên trái đang mặc của P 01 gói bằng giấy bạc màu trắng, bên trong có chứa chất bột vón cục màu trắng ngà nghi là Hêrôin.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn P khai nhận: Là đối tượng nghiện ma túy (Xét nghiệm tìm chất ma túy trong cơ thể P kết quả (+) dương tính). Khoảng 08 giờ ngày 06/01/2020, P đi bộ từ nhà đến thôn T2, xã K, huyện S mục đích tìm mua Hêrôin để sử dụng. Đến nơi, P gặp một người đàn ông khoảng 40 tuổi, (không rõ tên, tuổi, địa chỉ) đứng ở ven đường. P hỏi: “Có Hêrôin bán không, bán cho 100.000 đồng”, người đó đồng ý và bán cho P 01 gói Hêrôin, bên ngoài gói bằng giấy bạc màu trắng. P cất gói Hêrôin vừa mua được vào túi quần trước bên trái đang mặc rồi đi về. Khi đến đoạn đường thuộc thôn T2, xã K, huyện S thì bị Tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Sơn Dương phát hiện và bắt giữ cùng tang vật. Số Hêrôin bị thu giữ P khai mục đích để sử dụng.

Tại Kết luận giám định số 86/GĐKTHS ngày 10/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang kết luận: Số chất bột vón cục màu trắng ngà thu giữ của Nguyễn Văn P gửi giám định là Hêrôin trọng lượng 0,135 gam (Không phẩy một ba năm gam).

Từ nội dung trên, Cáo trạng số 31/CT-VKSSD ngày 13/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn P về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn P phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; đoạn 1 điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

- Xử phạt Nguyễn Văn P từ 15 (mười lăm) tháng đến 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 06/01/2020.

Ngoài ra, Kiểm sát viên còn đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo, xử lý vật chứng, buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, nội dung khai báo của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, không có tình tiết mới. Bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định, bị cáo nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình.

Kết thúc phần tranh tụng, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, tỏ thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về việc xem xét hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được thể hiện qua biên bản bắt người phạm tội quả tang; kết luận giám định; vật chứng của vụ án và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 10 giờ 20 phút ngày 06/01/2020, tại đoạn đường liên thôn thuộc thôn T2, xã K, huyện S, tỉnh Tuyên Quang, Nguyễn Văn P có hành vi tàng trữ trái phép 0,135 gam (Không phẩy một ba năm gam) Hêrôin mục đích để sử dụng cho bản thân.

Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, hành vi của bị cáo thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[2] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Qua xem xét, nghiên cứu hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định: Quá trình điều tra và truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật có liên quan. Khởi tố, điều tra, thu thập chứng cứ, truy tố đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm, quy định tại đoạn 1 điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về mức án đối với bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma tuý, gây mất trật tự trị an tại địa phương và là một trong những nguyên nhân thường gây ra các tội phạm, tệ nạn xã hội khác. Bị cáo nhận thức rõ tác hại của ma túy, bản thân bị cáo đã 01 lần bị xét xử về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy chưa được xóa án tích nhưng không lấy đó làm bài học cải tạo bản thân trở thành người có ích cho xã hội mà còn tiếp tục phạm tội. Vì vậy, cần xử bị cáo phải chịu hình phạt tù giam mới cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời phòng ngừa tội phạm chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có tài sản riêng có giá trị, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng: Qúa trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Dương đã thu giữ 01 phong bì đã niêm phong bên trong có chứa Hêrôin, bên ngoài phong bì có dấu của cơ quan giám định và chữ ký của bị cáo Nguyễn Văn P là tang vật của vụ án không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với đối tượng bán Hêrôin cho bị cáo tại khu vực xã K, huyện S không xác định được họ tên, địa chỉ nên không có căn cứ điều tra xử lý. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo ngày 05/01/2020 đã bị cơ quan Công an huyện Sơn Dương ra quyết định xử phạt hành chính nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. [9] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; đoạn 1 điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự;

* Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn P phạm tội " Tàng trữ trái phép chất ma túy ".

*Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn P 01 ( một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 06/01/2020.

* Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đã niêm phong bên trong có chứa ma túy loại Hêrôin còn lại sau giám định, bên ngoài phong bì có dấu của cơ quan giám định và chữ ký của bị cáo Nguyễn Văn P.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng giữa Công an huyện Sơn Dương và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sơn Dương ngày 17/3/2020).

* Về án phí : Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016:

Bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

* Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 26/2020/HS-ST

Số hiệu:26/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về