Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 261/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 261/2021/HS-ST NGÀY 13/08/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 08 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 201/2021/TLST-HS ngày 16 tháng 06 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 385/2021/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 07 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Phan Hữu C; tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 10/12/1992 tại Hện PV, tỉnh Thừa Thiên Huế; Nơi cư trú: tổ dân phố Lương Viện, thị trấn Phú Đa, Hện PV, tỉnh Thừa Thiên Huế; Chỗ ở hiện nay: khối 2, phường Q, thành phố V, tỉnh Nghệ An; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do: Trình độ học vấn:

12/12; Họ tên cha: Phan T1; Sinh năm 1953; Họ tên mẹ: Phan Thị G; Sinh năm 1951; Anh chị em ruột: Có 08 người; bị cáo là con thứ 08 trong gia đình; Vợ: Nguyễn Thị Kim D; Sinh năm 1997; Con: có 01 người, sinh năm 2020; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/3/2021 đến nay; Có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Danh T; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 01/01/1989 tại Hện HD, tỉnh Bạc Liêu; Nơi cư trú: ấp B, thị trấn N, Hện HD, tỉnh Bạc Liêu; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Khơ me; Tôn giáo: Không;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 10/12; Họ tên cha: Danh S (Đã chết); Họ tên mẹ: Thái Thị E; Sinh năm 1966; Anh chị em ruột: Có 03 người; bị cáo là con thứ 03 trong gia đình; Vợ: Đặng Thị G; Sinh năm 1989 (Đã ly hôn); Con: có 02 con, lớn nhất sinh năm 2010, nhỏ nhất sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/3/2021 đến nay; Có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 16 giờ 30 phút ngày 25/3/2021, tại quán Karaoke NewLand số 77 đường L1 thuộc khối 3, phường L1, thành phố V, tỉnh Nghệ An tổ công tác điều tra tội phạm về ma túy công an thành phố V phát hiện bắt quả tang Phan Hữu C, Danh T về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thu giữ niêm phong 01 gói ni lông màu trắng bên trong có chứa 01 mảnh vỡ ra dạng viên nén màu vàng hình dạng không xác định.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố V, tỉnh Nghệ An Phan Hữu C khai nhận: Khoảng 09 giờ ngày 25/3/2021, Phan Hữu C cùng Danh T và một số người bạn của anh Phan Duẩn sinh năm 1977 trú tại phường LT, thành phố T, thành phố Hồ Chí Minh ngồi uống cà phê tại quán cà phê Thư viện tỉnh Nghệ An thuộc phường H, thành phố V, tỉnh Nghệ An. Khi về thì mọi người ra trước còn C và Danh T ở lại sau thanh toán tiền. Lúc này, T hỏi C có sử dụng ma túy thuốc lắc không, T đang có 1,5 viên ma túy thuốc lắc thì C trả lời không. C nói với T vứt gói thuốc lắc đi sợ chiều lên máy bay đi về Sài Gòn sẽ bị lực lượng an ninh sân bay phát hiện rồi cả hai ra xe đi về. Đến 11 giờ cùng ngày, T, C cùng với anh Phan Duẩn, anh Lê Minh Cường sinh năm 1981 trú tại khối 12, phường Hồng Sơn, thành phố V, tỉnh Nghệ An; anh Nguyễn Đức T1 sinh năm 1980 trú tại khối 5, phường C, thành phố V, tỉnh Nghệ An; anh Hoàng Đình H sinh năm 1985 trú tại xóm 11, xã NT, Hện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An đi ăn uống tại quán ăn số 129 đường PĐTthuộc phường Hà H tập, thành phố V, tỉnh Nghệ An. Đến 13 giờ 30 phút cùng ngày thì tất cả đến quán Karaoke NewLand số 77 đường L1 thuộc khối 3, phường L1, thành phố V, tỉnh Nghệ An thuê phòng 222 hát. Lúc này có chị Nguyễn Thị Thanh V1 sinh năm 1994 trú tại xã KL, Huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh (là nhân viên của quán Karaoke) vào phục vụ. Tại phòng hát, C thấy Danh T lấy từ trong túi quần bò bên trái đang mặc 01 bao ni lông màu trắng bên trong có 1,5 viên ma túy thuốc lắc để lên bàn trước vị trí C, T đang ngồi. C cầm gói ma túy lên xem rồi để lại chỗ cũ. Lúc này, T lấy 0,5 viên ma túy thuốc lắc bỏ vào cốc bia rồi cùng C sử dụng. Đến 16 giờ 30 phút cùng ngày, khi thấy lực lượng công an vào kiểm tra, sợ bị phát hiện nên C lấy gói ni lông chứa thuốc lắc cất dấu dưới ghế nơi C ngồi thì bị tổ công tác Công an thành phố V phát hiện thu giữ.

Còn Danh T khai nhận: Ngày 24/6/2021, T cùng anh Duẩn, anh C và 01 số người bạn (T không quen biết) đi hát tại 01 quán hát trên địa bàn thành phố Huế. Khi ra về thì T thấy có 1,5 viên ma túy thuốc lắc để trên bàn trong phòng hát nên T lấy cất giấu trong người với mục đích khi cần thì sử dụng. Sáng 25/3/2021, T đi ra thành phố V. Khoảng 09 giờ ngày 25/3/2021, Danh T cùng Phan Hữu C và một số người bạn của anh Phan Duẩn ngồi uống cà phê tại quán cà phê Thư viện tỉnh Nghệ An thuộc phường Hưng Phúc, thành phố V. Khi về thì mọi người ra trước còn C và T ở lại sau thanh toán tiền. Lúc này, C hỏi T thuốc lắc hôm qua thừa để ở đâu thì T lấy từ trong ví ra 1,5 viên ma túy thuốc lắc bỏ vào vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long màu vàng đưa cho C. Đến 11 giờ cùng ngày, T, C cùng với anh Phan Duẩn, anh Lê Minh Cường sinh năm 1981 trú tại khối 12, phường Hồng Sơn, thành phố V; anh Nguyễn Đức T1 sinh năm 1980 trú tại khối 5, phường C, thành phố V; anh Hoàng Đình H sinh năm 1985 trú tại xóm 11, xã NT, Huyện NL, tỉnh Nghệ An đi ăn uống tại quán ăn số 129 đường PĐT, thuộc phường H, thành phố V. Đến 13 giờ 30 phút cùng ngày thì tất cả đến quán Karaoke NewLand số 77 đường L1 thuộc khối 3, phường L1, thành phố V thuê phòng 222 hát. Lúc này có chị Nguyễn Thị Thanh V1 sinh năm 1994 trú tại xã KL, Hện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh (là nhân viên của quán Karaoke) vào phục vụ. Tại phòng hát, T và C ngồi canh nhau. T thấy C lấy ma túy thuốc lắc ra cho vào cốc bia để sử dụng. Đến 16 giờ 30 phút cùng ngày, khi thấy lực lượng công an vào kiểm tra, phát hiện thu giữ dưới ghế nơi C ngồi 01 gói ni lông màu trắng bên trong chứa 01 mảnh vỡ ma túy thuốc lắc màu vàng nhạt. Đây chính là số ma túy trước đó T đã đưa cho C. Về nguồn gốc số ma túy thu giữ có sự mẫu thuẫn giữa lời khai của Phan Hữu C và Danh T, Cơ quan điều tra đã tiến hành đối chất nhưng chưa đủ cơ sở kết luận ai là người đã mang đến phòng 22 quán Karaoke NewLand để cùng sử dụng.

Căn cứ biên bản mở niêm phong xác định khối lượng và lấy mẫu để trưng cầu giám định ngày 25/3/2021 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố V và kết luận giám định số 487/KL-PC09 (Đ2-MT) ngày 01/4/201 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận:

“Mẫu mảnh vỡ ra dạng viên nén màu vàng, hình dạng không xác định thu giữ của Danh T và Phan Hữu C gửi tới giám định là ma túy (MDMA). Mảnh vỡ ra dạng viên nén màu vàng, hình dạng không xác định thu giữ của Danh T và Phan Hữu C có khối lượng 0,365 gam.” Về vật chứng: Mảnh vỡ ra dạng viên nén màu vàng, hình dạng không xác định thu giữ của Danh T và Phan Hữu C đã sử dụng hết trong quá trình giám định. 01 phong bì thư niêm phong vỏ giấy niêm phong ban đầu, bao ni lông màu trắng được cHuyển đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố V để bảo quản.

Bản Cáo trạng số 240/CT-VKS-HS ngày 16 tháng 6 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, tỉnh Nghệ An truy tố hai bị cáo Danh T và Phan Hữu C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, tỉnh Nghệ An giữ quyền công tố tranh luận: giữ nguyên quyết định truy tố cả hai bị cáo Phan Hữu C và Danh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s,v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phan Hữu C từ 9 đến 12 tháng tù; Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51của Bộ luật hình sự , xử phạt bị cáo Danh T từ 15 đến 18 tháng tù.

Về vật chứng: Mảnh vỡ ra dạng viên nén màu vàng, hình dạng không xác định thu giữ của Danh T và Phan Hữu C đã sử dụng hết trong quá trình giám định. 01 phong bì thư niêm phong vỏ giấy niêm phong ban đầu, bao ni lông màu trắng được cHển đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố V để bảo quản là vật không còn giá trị nên đề nghị HĐXX tịch thu, tiêu hủy.

Về án phí: buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, hai bị cáo hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát thành phố V đã quy kết và không tranh luận gì mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Phan Hữu C và Danh T khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát quy kết. Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, truy tố, phù hợp với các tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên toà. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Hồi 16 giờ 30 phút ngày 25/3/2021, tại phòng 222 quán Karaoke NewLand số 77 đường L1 thuộc khối 3, phường L1, thành phố V, tỉnh Nghệ An, Danh T, Phan Hữu C có hành vi tàng trữ trái phép 0,365 gam ma túy (MDMA) để sử dụng thì bị tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố V phát hiện bắt quả tang. Hành vi cất giữ ma túy với mục đích để sử dụng của Phan Hữu C và Danh T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

[2.2]. Vụ án thuộc loại nghiêm trọng, có đồng phạm nhưng tích chất giản đơn. Đánh giá tính chất hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy.Cả hai bị cáo là người có đủ sức khỏe và nhận thức, thấy được tác hại do ma túy mang lại cho con người và xã hội nhưng bị cáo không phòng, tránh mà lại sa vào con phạm tội. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết mới đủ răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Cả hai bị cáo Phan Hữu C và Danh T đều không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của hai bị cáo HĐXX thấy:

Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Phan Hữu C và Danh T có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Vậy nên, cho cả hai bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự.

Riêng đối với bị cáo Phan Hữu C đã có thời gian tham gia trong lực lược an ninh và nhiều năm liền có thành tích suất sắc trong lao động và công tác. Cụ thể là Phan Hữu C đã được Giám đốc công an THỪA THIÊN HUẾ tặng thưởng Giấy khen cho danh hiệu Chiến sỹ tiên tiến trong năm 2011; năm 2012, được Giám đốc công an Thừa Thiên Huế tặng thưởng Giấy khen vì có thành tích xuất sắc trong tham gia diễn tập phòng chống khủng bố, đảm bảo an ninh hàng hải tại Cảng Chân Mây. Ngoài ra, gia đình bị cáo C còn có nhiều người có công với cách mạng như mẹ bị cáo là bà Phan Thị Gái được nhà nước tặng thưởng Bằng Khen trong kháng chiến chống mỹ, ông bà nội ngoại đều được Nhà nước tặng thưởng Huân H chương trong các cuộc kháng chiến. Do vậy bị cáo Phan Hữu C được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm v khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Do bị cáo C có nhiều tình tiết giảm nhẹ hơn bị cáo T nên HĐXX xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo C hơn mức giảm nhẹ cho bị cáo T; xử bị cáo C ở dưới mức thấp nhất của khung hình phạt và xử bị cáo T ở mức thấp nhất như đề nghị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp, để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật để cải tạo tốt, sớm qua lại với cộng đồng xã hội, trở thành những người công dân tốt, có ích cho xã hội.

[2.3] Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy nghề nghiệp của cả hai bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định, Hội đồng xét xử xét thấy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[2.4]. Trong vụ án này, anh Phan Duẩn, Lê Minh Cường, Nguyễn Đức T1, Hoàng Đình H, chị Nguyễn Thị Thanh V1 là những người có mặt tại phòng 222 của quán Karaoke NewLand số 77 đường L1; tuy nhiên quá trình có mặt nhưng người này không biết việc Phan Hữu C, Danh T có cất giấu và sử dụng ma túy trong phòng nên không có căn cứ xử lý.

[2.5]. Về vật chứng trong vụ án: Mảnh vỡ ra dạng viên nén màu vàng, hình dạng không xác định thu giữ của Danh T và Phan Hữu C đã sử dụng hết trong quá trình giám định. 01 phong bì thư niêm phong vỏ giấy niêm phong ban đầu, bao ni lông màu trắng được cHển đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố V để bảo quản là vật không còn giá trị nên cần tịch thu tịch thu, tiêu hủy.

[2.6]. Bị cáo Phan Hữu C và Danh T phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Phan Hữu C và Danh T đều phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015; Xử phạt: Phan Hữu C 9 (Chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 25/3/2021.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Bộ luật hình sự năm 2015; Xử phạt: Danh T 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 25/3/2021.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư niêm phong dán kín thu giữ của Danh T và Phan Hữu C, bên trong chứa mảnh giấy niêm phong cũ hiện có tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố V theo Phiếu nhập kho vật chứng số NK 2021/330 ngày 4/8/2021.

- Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Phan Hữu C và Danh T mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các bị cáo có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

252
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 261/2021/HS-ST

Số hiệu:261/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về