Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 258/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 258/2021/HS-ST NGÀY 27/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 09 năm 2021; tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định. Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 248/2021/TLST-HS ngày 30/08/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 248/2021/QĐXXST-HS ngày 07/09/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Đình D - sinh năm 1964 tại tỉnh Nam Định; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 4/46 đường H, phường Q, thành phố N, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Không có nơi ở cố định; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Đình O (đã chết) và bà Lê Thị T (đã chết); có vợ Nguyễn Thị L (đã ly hôn) và 01 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 07-12-1985 Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam Ninh xử phạt 03 năm tù về tội "Cướp tài sản riêng của công dân". Ngày 13/09/1991 Tòa án nhân dân Tối cao xử phạt 03 năm tù về tội "Làm hàng giả". Ngày 23/11/1999 Tòa án nhân dân Tối cao xử phúc thẩm tuyên y án sơ thẩm xử phạt 05 năm 06 tháng tù về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công dân". Ngày 14/09/2007 Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định xử phạt 09 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy; bị tạm giữ từ ngày 03/06/2021, sau đó chuyển tạm giam từ ngày 12/06/2021 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố N; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng: Ông Trần Quang Vinh, anh Đỗ Văn Vân (không triệu tập tới phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 19 giờ ngày 02/6/2021, Tổ công tác Công an xã N, thành phố N làm nhiệm vụ tại khu vực trước cửa số nhà 37 đường M, phường N, thành phố N phát hiện Trần Đình D đang đi bộ một mình có biểu hiện nghi vấn nên đã yêu cầu kiểm tra. Quá trình kiểm tra, D đã tự giác giao nộp từ tay phải của D cho Tổ công tác 01 gói nilong màu hồng. Tổ công tác đã mời người làm chứng, mở kiểm tra bên trong là gói giấy bạc màu vàng, trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng (D khai là gói Heroine mua về để sử dụng). Tổ công tác đã tiến hành niêm phong vật chứng, đưa D và mời người làm chứng về trụ sở Công an xã N lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang theo quy định của pháp luật.

Bản Kết luận giám định số 733/GĐKTHS ngày 07/06/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định đã kết luận vật chứng thu giữ của Trần Đình D được niêm phong gửi giám định là ma túy. Loại ma túy: Heroine. Tổng khối lượng mẫu: 0,125 gam (không phẩy một hai năm gam).

Tại Cơ quan điều tra, Trần Đình D khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng và khai nhận nguồn gốc số ma túy trên như sau: Khoảng 18 giờ 40 phút ngày 02/06/2021, D đang uống cà phê ở phố H, thành phố N thì gặp một nam thanh niên (không biết tên, tuổi, địa chỉ) điều khiển xe máy đi qua. D gọi người này lại nhờ chở đến khu vực đầu mom, tổ 29, T, phường T, thành phố N. Đến nơi, D bảo người này đứng đợi ở đầu ngõ còn D đi bộ vào trong ngõ. D gặp và mua của một người phụ nữ (không biết tên, tuổi, địa chỉ) đang đứng ở trong ngõ 01 gói Heroine được gói bằng túi nilong màu hồng với giá 100.000 đồng. D cầm gói Heroine vừa mua trên tay phải rồi đi ra chỗ nam thanh niên đang đứng đợi để đi về. Khi đi đến trước cửa số nhà 37 đường M, phường N, thành phố N thì D bảo nam thanh niên cho D xuống. Người này dừng xe cho D xuống xe rồi đi luôn. D đang định đi bộ vào chợ D để tìm nơi sử dụng thì bị phát hiện, bắt giữ như đã nêu trên.

Bản Cáo trạng số 248/CT-VKSTPNĐ ngày 30/08/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố Trần Đình D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà: Bị cáo Trần Đình D xác nhận trong quá trình điều tra, truy tố không bị Cơ quan tiến hành tố tụng ép cung, bức cung hay dùng nhục hình. Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố là đúng và khai nhận biết rõ hành vi cất giữ trái phép ma túy là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng do nghiện ma túy nên đã tàng trữ với mục đích sử dụng cho bản thân. Bị cáo không khai báo thêm tình tiết mới và ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N luận tội và tranh luận: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Trần Đình D theo toàn bộ nội dung bản Cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Trần Đình D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo từ 24 tháng đến 27 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ của bị cáo.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, Người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Li khai nhận tội của bị cáo Trần Đình D có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình, không có sự mâu thuẫn và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ như biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản thu giữ vật chứng; lời khai của những người làm chứng; bản Kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ nên đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 19 giờ ngày 02-6-2021, tại khu vực trước cửa số nhà 37 đường M, phường N, thành phố N, Trần Đình D đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,125 gam Heroine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây mất trật tự an ninh xã hội trên địa bàn thành phố N, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, việc truy tố và đưa ra xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội.

[3] Các tình tiết Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi Quyết định hình phạt đối với bị cáo:

[3.1] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[3.2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng là đối tượng có nhân thân rất xấu.

[4] Về hình phạt: Xét bị cáo Trần Đình D là đối tượng có nhân thân xấu đã được giáo dục nhiều lần nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học mà lại tiếp tục phạm tội cho thấy bị cáo là đối tượng khó giáo dục, cải tạo nên cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn với mức hình phạt nghiêm khắc nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo tàng trữ ma túy với mục đích để sử dụng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Số ma túy trong phong bì niêm phong số 733/GĐKTHS là vật Nhà nước cấm tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy.

[7] Đối với đối tượng đã bán ma túy cho Trần Đình D, do chưa đủ căn cứ kết luận nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N đã tách ra để tiếp tục điều tra xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáo Trần Đình D bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Trần Đình D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Trần Đình D 27 (hai bảy) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 03 tháng 06 năm 2021.

2. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy trong phong bì niêm phong số 733/GĐKTHS (vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/08/2021).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Trần Đình D phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Trần Đình D được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án có quyền tự nguyện thi hành hoặc cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 258/2021/HS-ST

Số hiệu:258/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về