Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 25/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 25/2024/HS-ST NGÀY 17/04/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện E, tỉnh Đ xét xử sơ thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 30/2024/TLST-HS ngày 25 tháng 3 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2024/QĐXXST-HS, ngày 02 tháng 4 năm 2024 đối với các bị cáo:

Tại điểm cầu thành phần:

1. Bế Văn Nh, sinh năm 1977 tại tỉnh C; nơi cư trú: Thôn 9, xã Cư A M, huyện Ea H, tỉnh Đ; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa:

02/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bế Văn L (đã chết) và con bà Ngôn Thị Đ; có vợ: Bà Nông Thị Ph; có 02 người con, con lớn sinh năm 1999 và con nhỏ sinh năm 2001; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 16 tháng 12 năm 2023 đến ngày 22 tháng 12 năm 2023 thì chuyển sang tạm giam cho đến nay. Có mặt.

2. Vi Văn C, sinh năm 1974 tại tỉnh C; nơi cư trú: Thôn 9, xã Cư A M, huyện Ea H, tỉnh Đ; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa:

7/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vi Văn Ph (đã chết) và con bà Nông Thị Ó (đã chết); có vợ: Bà Nguyễn Thị H; có 02 người con, con lớn sinh năm 2000 và con nhỏ sinh năm 2002; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 16 tháng 12 năm 2023 đến ngày 22 tháng 12 năm 2023 thì chuyển sang tạm giam cho đến nay. Có mặt.

Tại điểm cầu trung tâm:

- Người chứng chứng: Anh Nông Văn C, sinh năm 1997; trú tại: Thôn 5A, xã Ea W, huyện Ea H, tỉnh Đ. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 13 giờ 30 phút, ngày 16/12/2023 Bế Văn Nh và Vi Văn C cùng thống nhất góp tiền mua ma tuý về sử dụng chung, C đưa cho Nh 50.000 đồng, Nh bỏ ra 50.000 đồng. Sau đó, Nh và C đi bộ từ thôn 9, xã Cư A Mung đến khu vực vườn điều ở thôn 8B, xã Ea Wy, huyện E, tỉnh Đ gặp một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) mua 100.000 đồng tiền ma túy, người này nhận tiền và đưa cho Nh 01 gói giấy bạc màu vàng, bên trong có chứa chất rắn màu trắng rồi Nh và C đi tìm địa điểm ở khu vực thôn 8B, xã Ea Wy, huyện E để sử dụng. Khoảng 14 giờ cùng ngày, khi Nh và C đang lấy ma túy ra chuẩn bị sử dụng thì bị tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra về Kinh tế - Ma tuý Công an huyện E phối hợp cùng Công an xã Ea Wy phát hiện, bắt quả tang. Thu giữ trên người của Nh 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong có chứa chất rắn màu trắng, Nh và C khai nhận chất màu trắng trong gói giấy bạc nêu trên là chất ma tuý, Nh và C cùng nhau góp tiền mua về để sử dụng cho bản thân. Cơ quan Công an đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Bế Văn Nh và Vi Văn C về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và niêm phong tang vật theo quy định.

Tại kết luận giám định số: 07/KL-KTHS ngày 22/12/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ, kết luận: Chất bột màu trắng chứa trong 01 gói giấy bạc màu vàng được niêm phong gửi giám định là ma tuý, có khối lượng 0,1976 gam, loại Heroine. Mẫu vật còn lại sau giám định là 0,1574 gam Heroine.

Tại bản Cáo trạng số: 30/CT-VKS-HS, ngày 22 tháng 3 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H'Leo, tỉnh Đ truy tố các bị cáo Bế Văn Nh và Vi Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện E giữ nguyên quan điểm truy tố, đồng thời đánh giá về tính chất, mức độ, vị trí, vài trò phạm tội của các bị cáo và xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Từ đó, đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Các bị cáo Bế Văn Nh và Vi Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Bế Văn Nh từ 01 năm tù đến 01 năm 03 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 16 tháng 12 tháng 2023.

Xử phạt bị cáo Vi Văn C từ 01 năm tù đến 01 năm 03 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 16 tháng 12 tháng 2023.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho các bị cáo trong quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch nên không có căn cứ xử lý.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định là 0,1574 gam ma túy, loại Heroine được niêm phong trong 01 phong bì thư, niêm phong số: 07/KL-KTHS theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 26/3/2024.

Tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình không có ý kiến tranh luận gì về tôi danh và mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng đối với các bị cáo.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đề Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất để về chăm sóc vợ con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Về quyết định tố tụng và hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện E, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện E, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2]. Về nội dung và tội danh đối với các bị cáo: Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau: Vào khoảng 14 giờ ngày 16/12/2023, tại thôn 8B, xã Ea Wy, huyện E, tỉnh Đ khi Bế Văn Nh và Vi Văn C đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,1976 gam ma túy, loại Heroine để sử dụng cho bản thân thì bị Công an phát hiện và bắt quả tang.

Tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” như sau:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

……………………………………..

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

Do đó, hành vi của các bị cáo Bế Văn Nh và Vi Văn C đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Như vậy, bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện E truy tố các bị cáo theo tội danh và điều luật đã viện dẫn là có căn cứ và đúng pháp luật.

Tại phiên tòa các bị cáo Bế Văn Nh và Vi Văn C đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình không có ý kiến và tranh luận gì về tội danh, chỉ đề nghị xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[3]. Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Trong vụ án này các bị cáo đã thống nhất ý chí, cùng nhau góp tiền và cùng nhau đi mua ma túy để sử dụng chung cho bản thân. Do đó, các bị cáo phạm tội với vị trí, vai trò là người thực hành, hành vi phạm tội là ngang nhau và cùng thực hiện một tội phạm, nên các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự chung đối với khối lượng ma túy mà các bị cáo đang có hành vi tàng trữ trái phép. Như vậy, hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự đã xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây tác hại về nhiều mặt cho xã hội, ảnh hưởng đến sức khỏe của con người là nguyên nhân dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật khác. Vì vậy, phải có một mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tôi mà các bị cáo đã thực hiện.

[4]. Về nhân thân, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về nhân thân: Các bị cáo có nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự.

 Về tính tiết tăng nặng: Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, nên nhận thức pháp luật có phần hạn chế. Vì vậy, cần áp dụng điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho các bị cáo.

[5]. Về hình phạt: Căn cứ vào tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của các bị cáo, xem xét về nhân thân, vị trí và vai trò của các bị cáo, cũng như tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đã phân tích ở trên. Hội đồng xét xử xét thấy, để đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục các bị cáo trở thành công dân sống có ích cho xã hội và biết tôn trọng pháp luật.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho các bị cáo trong quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch nên không có căn cứ xử lý.

[6]. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tuyên tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định 0,1574 gam, loại Heroine được niêm phong trong 01 phong bì thư, niêm phong số: 07/KL-KTHS, theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 26/3/2024.

Về tội danh, điều luật, mức hình phạt và biện pháp xử lý vật chứng mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với các bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên cần chấp nhận.

[7]. Về án phí: Các bị cáo Bế Văn Nh và Vi Văn C là người dân tộc thiểu số sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nên thuộc trường hợp được miễn nộp tiền án phí Tòa án theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Bế Văn Nh và Vi Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về điều luật áp dụng và hình phạt. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 38 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Bế Văn Nh 01 (một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 16 tháng 12 năm 2023.

Xử phạt bị cáo Vi Văn C 01 (một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 16 tháng 12 năm 2023.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định 0,1574 gam, loại Heroine được niêm phong trong 01 phong bì thư, niêm phong số: 07/KL-KTHS, theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 26/3/2024 giữa Công an huyện E với Chi cục thi hành án dân sự huyện E. (Đặc điểm vật chứng được lưu trong hồ sơ vụ án).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Bế Văn Nh và Vi Văn C là người dân tộc thiểu số sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nên thuộc trường hợp được miễn nộp tiền án phí Tòa án.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo Bế Văn Nh và Vi Văn C có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm là 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

41
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 25/2024/HS-ST

Số hiệu:25/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ea H'leo - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về