Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 25/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MAI CHÂU, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 25/2022/HS-ST NGÀY 09/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 09 tháng 6 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 25/2022/TLST - HS ngày 18 tháng 4 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2022/QĐXXST - HS ngày 25 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo:

Đặng Văn T, sinh ngày 07 tháng 7 năm 1960 tại huyện V, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Xóm S, xã S, huyện Ma, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Dao; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn D (đã chết) và bà Triệu Thị N (đã chết); bị cáo có vợ là Triệu Thị H, sinh năm 1959 và có 03 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Không có án tích, chưa bị xử lý hành chính, xử lý kỷ luật lần nào, có sử dụng, nghiện chất ma túy; bị cáo bị tạm giữ ngày 05/01/2022 chuyển tạm giam ngày 14/01/2022. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 30 phút, ngày 05/01/2022 tổ công tác Công an huyện Mai Châu phối hợp cùng Công an xã Sơn Thủy đến nhà Đặng Văn T để kiểm tra. Khi thấy tổ công tác T đã vứt 06 viên nén mầu hồng vào bếp lửa nhưng tổ công tác đã kịp thời thu giữ. Sau đó T đã tự giác giao nộp 17 gói nilon mầu xanh bên trong là các gói giấy bạc chứa các viên nén mầu hồng, T khai nhận tất cả đều là ma túy T tàng trữ để sử dụng, Cơ quan CSĐT đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, lập biên bản niêm phong vật chứng đối với Đăng Văn T.

Tại Cơ quan điều tra Công an huyện Mai Châu, Đăng Văn T khai nhận về nguồn gốc số ma túy trên như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 05/01/2022 T đang ở nhà một mình thì có một người đàn ông tên là G đi cùng con trai đến nhà T chơi. Sau khi ngồi uống nước nói chuyện được một lúc thì G đi vào bếp và gọi T vào để cùng sử dụng ma túy. Sau khi cùng sử dụng ma túy G đưa cho Tiến 01 gói ma túy bên trong có 06 viên ma túy tổng hợp để T sử dụng, T đồng ý và cầm lấy gói ma túy trên. Sau đó G để trên bản uống nước 01 gói ma túy bên trong có 17 gói ma túy nhỏ và bảo T giữ hộ rồi bỏ đi. T đã để gói ma túy của G gửi ở trên giường. Đến khoảng 19 giờ 30 phút có Tổ công tác Công an vào nhà T kiểm tra thì đã phát hiện, thu giữ được 06 viên ma túy tổng và 17 gói ma túy do T giao nộp.

Vật chứng thu giữ: 06 viên nén mầu hồng và 17 gói nilon mầu xanh, bên trong lớp tiếp theo là giấy bạc chưa các viên nén mầu hồng. Sau khi mở niêm phong kiểm tra xác định tổng số là 50 viên nén mầu hồng, có khối lượng là 4,75 gam.

Tại bản kết luận giám định số: 10/KLGĐ-CAT-PC09 ngày 08/03/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình đã kết luận: Các viên nén mầu hồng ký hiệu từ M1 đến M18 trong phong bì niêm phong một mặt có ghi “Vật chứng thu giữ của Đặng Văn T, sinh năm 1960, trú tại xóm S, xã S, huyện M, tỉnh Hòa Bình” gửi giám định có tổng khối lượng 4,75 gam là ma túy, loại Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số: 26/CT-VKS-HS ngày 15/4/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Châu truy tố Đăng Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Châu luận tội giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh, hình phạt: Đề nghị tuyên bố bị cáo Đăng Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt Đăng Văn T từ 36 tháng đến 48 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 05/01/2022.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có việc làm ổn định, không có tài sản riêng, không có điều kiện thi hành nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: Căn cứ điêm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Đề nghị tịch thu để tiêu hủy toàn bộ số ma túy được hoàn trả sau giám định.

Về nguồn gốc số ma túy: Đối với người đàn ông tên G mà Đăng Văn T khai là ở bản C, xã L, huyện V, tỉnh Sơn La là người cho T ma túy và nhờ giữ hộ ma túy, quá trình điều tra xác minh tại địa bàn không có người đàn ông nào tên G có đặc điểm như T mô tả nên chưa có căn cứ đề nghị xử lý.

Đề nghị áp dụng khoản 1 và khoản 3 Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo đồng ý với tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Châu truy tố. Sau sự việc xảy ra đã thành khẩn khai báo mong được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an huyện Mai Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mai Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ai có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Tại cơ quan điều tra và phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với vật chứng thu được, kết luận giám định cùng toàn bộ các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó đã có đủ căn cứ để kết luận: Ngày 05/01/2022 tại xóm S, xã S, huyện M, Đăng Văn T đã có hành vi tàng trữ trái phép 4,75 gam ma tuý, loại Methamphetamine, mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân, ngoài ra không có mục đích nào khác. Như vậy có đủ căn cứ xác định bị cáo Đăng Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Xét tính chất vụ án, mức độ hành vi phạm tội: Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, biết rõ tác hại của ma tuý đối với bản thân, gia đình và xã hội, trong khi Nhà nước và toàn thể xã hội đang tìm mọi biện pháp đẩy lùi tệ nạn ma tuý ra khỏi cộng đồng bởi tác hại rất lớn của nó. Song vì cần có chất ma tuý để sử dụng cho bản thân nên bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách quản lý Nhà nước về chất ma túy. Lỗi của bị cáo trong vụ án này là lỗi cố ý trực tiếp.

[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Về tình tiết giảm nhẹ: Tại Cơ quan Điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã tỏ ra thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; bố của bị cáo được nhà nước trao tặng Huân chương kháng chiến hạng III, là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có việc làm ổn định, không có tài sản riêng, không có điều kiện thi hành nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Từ tính chất mức độ, nguyên nhân, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo nêu trên, thấy cần thiết phải có một hình phạt tương xứng với tính chất, hành vi mà bị cáo đã thực hiện. Do đó, việc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo cũng như đấu tranh phòng ngừa tội phạm trên địa bàn là cần thiết.

[7] Về vật chứng vụ án: Đối với toàn bộ số ma túy của bị cáo hoàn trả sau giám định cần phải tịch thu để tiêu huỷ sau khi án có hiệu lực pháp luật.

[8] Về các vấn đề khác: Đối với người đàn ông tên G mà bị cáo khai đã cho bị cáo ma túy và gửi ma túy tại nhà bị cáo, quá trình điều tra tại địa bàn bản C, xã L, huyện V, tỉnh Sơn La không có người đàn ông nào tên G có đặc điểm như T mô tả nên không có căn cứ đề nghị xử lý.

[9] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo Đăng Văn T phải nộp án phí và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh, hình phạt:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự.

- Tuyên bố bị cáo Đăng Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

- Xử phạt bị cáo Đăng Văn T 42 (bốn mươi hai) tháng tù. Thời hạn tính từ ngày tạm giữ 05/01/2022.

2. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong, bên trong có chứa toàn bộ ma túy còn lại sau khi giám định.

(Vật chứng nêu trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mai Châu, tình trạng, đặc điểm vật chứng được ghi trong Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số: 40/THA ngày 31/5/2022 giữa bên giao Công an huyện Mai Châu, bên nhận Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mai Châu).

3. Về án phí:

Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Bị cáo Đăng Văn T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

30
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 25/2022/HS-ST

Số hiệu:25/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mai Châu - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về