Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 25/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TAM ĐIỆP - TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 25/2022/HS-ST NGÀY 26/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 05 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình xét xử công khai, sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 25/2022/TLST - HS ngày 20 tháng 04 năm 2022, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2022/QĐXXST- HS ngày 13 tháng 05 năm 2022 đối với bị cáo:

Trần Đức T, sinh năm 1982, tại: huyện H, tỉnh N; nơi cư trú: thôn Kh, xã N, huyện H, tỉnh N; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Th (đã chết) và bà An Thị L; vợ, con: không có; tiền án: Tại bản án số 35/HSST ngày 19/10/2011 Toà án nhân dân huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình xử phạt 6.000.000đ về tội: “Đánh bạc” bị cáo T chưa chấp hành nộp phạt; tiền sự: không; nhân thân:

(1) bản án số 61/2011/HSST ngày 29/11/2011 Toà án nhân dân huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình xử phạt 30 tháng tù về tội; “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”;

(2) bản án số 38/2016/HSST ngày 25/03/2016 Toà án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xử phạt 27 tháng tù về tội; “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; bị cáo T bị bắt tạm giữ từ ngày 14/01/2022 đến ngày 20/01/2022 chuyển tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh Ninh Bình đến nay (có mặt).

- Người làm chứng: ông Nguyễn Đăng Kh (vắng mặt).

- Người chứng kiến: ông Vũ Ngọc L (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 00 phút ngày 14/01/2022, tổ công tác Công an thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình làm nhiệm vụ tuần tra đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn phường Trung Sơn, thành phố Tam Điệp, khi đến đoạn đường tổ 17 phường Trung Sơn, thành phố Tam Điệp phát hiện một nam thanh niên đứng một mình trên vỉa hè đường quốc lộ 1A hướng Thanh Hoá đi Ninh Bình, thấy có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy, tổ công tác yêu cầu kiểm tra giấy tờ tùy thân, nam thanh niên đã xuất trình thẻ căn cước công dân và khai tên là Trần Đức T, sinh năm 1982, trú tại: thôn Kh, xã N, huyện H, tỉnh N. Khi tổ công tác hỏi T có sử dụng ma túy không, T khai bản thân là người sử dụng ma túy Heronie và tự giác lấy gói nhỏ được gói bằng mầu trắng, ở túi áo khoác bên phải phía trước đang mặc giao nộp cho tổ công tác và khai nhận là gói ma túy loại Heronie vừa mua được của người phụ nữ không quen biết ở khu vực dốc Quán Cháo, thuộc tổ 17, phường Trung Sơn, thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình với giá 500.000đ, mục đích mang theo để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác kiểm tra gói nhỏ do T giao nộp, bên ngoài được gói bằng giấy mầu trắng, mở kiểm tra bên trong có chứa chất bột dạng cục mầu trắng. Sau khi kiểm tra tổ công tác đã niêm phong vào phong bì giấy dán kín mép, trên mép dán có chữ ký xác nhận của T, người làm chứng, người chứng kiến và cán bộ công an làm nhiệm vụ. Ngoài ra T còn tự giác lấy từ túi quần bên phải, phía trước đang mặc 20.000đ giao nộp cho tổ công tác. Sau đó tổ công tác đưa T cùng vật chứng về trụ sở công an phường Trung Sơn lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại trụ sở công an phường Trung Sơn, thành phố Tam Điệp cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Tam Điệp tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng chất bột dạng cục mầu trắng có trong gói giấy mầu trắng thu giữ của Trần Đức T có khối lượng 0,24 gam ký hiệu M gửi đi trưng cầu giám định.

Tại bản kết luận giám định số 143/KLGĐ - PC09 - MT ngày 20/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình kết luận: Mẫu chất bột dạng cục màu trắng gửi đi giám định ký hiệu M có khối lượng 0,2368gam là ma túy, loại Heroine.

Heroine là chất ma túy thuộc bảng danh mục I, số thứ tự 9; Nghị định số 73/2018/NĐ - CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Tại bản cáo trạng số 29/CT-VKS ngày 18/04/2022 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp truy tố bị cáo Trần Đức T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị HĐXX: tuyên bố bị cáo Trần Đức T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Đức T từ 20 tháng đến 24 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 14/01/2022.

Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu huỷ vật chứng bao gồm:

+ 01 phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật, bên trong có mẫu vật ký hiệu M = 0,1732gam ma túy loại Heroine và toàn bộ vỏ bao gói niêm phong.

+ 01 phong bì giấy dán kín nép niêm phong theo quy định của pháp luật bên ngoài ghi vật chứng lưu kho gồm: 01vỏ mảnh giấy mầu trắng, kích thước (4x4)cm; 01 vỏ phong bì giấy đã bị xé rách một đầu dùng để niêm phong vật chứng thu giữ ban đầu của Trần Đức T.

- Trả lại cho bị cáo T 20.000đ.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Đức T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, như cáo trạng đã truy tố. Bị cáo cho rằng việc truy tố của Viện kiểm sát là đúng người đúng tội, đồng ý với luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp tại phiên toà về việc giải quyết vụ án. Nói lời sau cùng, bị cáo đề nghị được giảm nhẹ hình phạt.

Người làm chứng ông Nguyễn Đăng Kh khai báo: khoảng 14 giờ 00 phút ngày 14/01/2022, ông Kh đang đi trên đường quốc lộ 1A hướng Thanh Hóa đi Ninh Bình đến đoạn đường thuộc tổ 17, phường Trung Sơn, thành phố Tam Điệp, nhìn thấy Công an đang kiểm tra hành chính, bị cáo T xuất trình giấy tờ tùy thân và khai nhận là người nghiện ma túy, đồng thời tự lấy ở trong túi áo khoác đang mặc 01 gói, bị cáo khai nhận là ma túy giao nộp cho Công an, Công an có mời ông Vũ Ngọc L chứng kiến việc bị cáo giao nộp 01 gói ma túy cho Công an.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời nhận tội của bị cáo T tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, phù hợp với lời khai của người làm chứng và người chứng kiến, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định số 143/KLGĐ-PC09-MT ngày 20/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: khoảng 14 giờ 00 phút ngày 14/01/2022 tại vỉa hè đường quốc lộ 1A thuộc tổ 17, phường Trung Sơn, thành phố Tam Điệp, bị cáo Trần Đức T có hành vi tàng trữ 01 gói ma túy có khối lượng 0,2368gam, loại Heroine với mục đích sử dụng cho bản thân.

[2] Bị cáo T là người có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi tàng trữ ma túy trong người để sử dụng cho bản thân là trái phép, là cố ý và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trị an trên địa phương.

Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định về: “Tội tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma tuý thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm a) …… c) Heroine, Cocain, Methamphetamine, Amphetamine, ADMA hoặc XLR-11 có khối lượng 0,1gam đến dưới 05gam.

Như vậy, khối lượng ma tuý loại Heroine mà bị cáo tàng trữ được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, do đó hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân:

Ngày 19/10/2011, bị cáo T bị Toà án nhân dân huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình xử phạt 6.000.000đ về tội: “Đánh bạc” chưa chấp hành nộp phạt nên chưa được xóa án tích, hành vi phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo T là người có nhân thân xấu, ngày 29/11/2011 Toà án nhân dân huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình xử phạt 30 tháng tù về tội; “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và ngày 25/03/2016 của Toà án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xử phạt 27 tháng tù về tội; “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” đã được xoá án tích.

[4] Về hình phạt: xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, khối lượng, loại chất ma túy bị cáo T đã tàng trữ. Hội đồng xét xử xét thấy mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp đề nghị xử phạt đối với bị cáo là tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo đủ nghiêm khắc để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân sống có ích cho bản thân và cho xã hội, đồng thời bảo đảm tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ xung: bị cáo T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” với mục đích để sử dụng cho bản thân không mang tính chất vụ lợi. Vì vậy không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo T.

[6] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

- Đối với số ma túy được hoàn trả sau khi giám định có khối lượng 0,1732gam là vật cấm lưu hành; 01vỏ phong bì giấy đã bị xé rách một đầu dùng niêm phong vật chứng thu giữ ban đầu, được niêm phong trong một phong bì giấy; 01 mảnh giấy bạc màu trắng kích thước (4x4)cm là vật không còn giá trị. Do vậy căn cứ điểm a, c khoản 2 điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự tịch thu tiêu hủy.

- Đối với số tiền 20.000đ thu giữ của bị cáo T không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên căn cứ điểm a khoản 3 điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự trả lại cho bị cáo T.

- Đối với 01 căn cước công dân số 037082007678 mang tên Trần Đức T là giấy tờ tùy thân không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo vì vậy cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Tam Điệp đã trả căn cước công dân cho bị cáo T là đúng quy định pháp luật.

[7] Về nguồn gốc số ma túy, bị cáo T khai nhận vào chiều ngày 14/01/2022 bị cáo đi nhờ xe mô tô của một người không quen biết từ nhà vào khu vực dốc Quán Cháo thuộc tổ 17, phường Trung Sơn, thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình gặp người phụ nữ khoảng 40 tuổi không biết tên, tuổi, địa chỉ và hỏi mua 01 gói Heronie với giá 500.000đ mục đích để sử dụng cho bản thân, khi đang cất giấu ở túi áo khoác bên phải đang mặc, thì bị tổ công tác Công an thành phố Tam Điệp kiểm tra hành chính, phát hiện bắt quả tang, nên bị cáo không biết được họ tên, tuổi địa chỉ, đặc điểm nhận dạng, phương tiện của người phụ nữ đã bán ma tuý cho bị cáo. Do vậy không đủ cơ sở xác minh làm rõ.

[8] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Tam Điệp, điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tam Điệp, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[9] Về án phí: Bị cáo Trần Đức T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[10] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Căn điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; các điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Trần Đức T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt: bị cáo Trần Đức T 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 14/01/2022.

2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

- Tịch thu tiêu huỷ vật chứng bao gồm:

+ 01 phong bì niêm phong theo quy định của pháp luật, bên trong có mẫu vật ký hiệu M = 0,1732gam ma túy loại Heroinevà toàn bộ vỏ bao gói niêm phong.

+ 01 phong bì giấy dán kín nép niêm phong theo quy định của pháp luật bên ngoài ghi vật chứng lưu kho gồm: 01 mảnh giấy mầu trắng, kích thước (4x4)cm;

01 vỏ phong bì giấy đã bị xé rách một đầu dùng để niêm phong vật chứng thu giữ ban đầu của Trần Đức T.

- Trả lại cho bị cáo Tài 20.000đ.

(Chi tiết vật chứng theo biên bản bàn giao vật chứng ngày 21/04/2022 và giấy ủy nhiệm chi ngày 18/04/2022 giữa Cơ quan điều tra Công an thành phố Tam Điệp với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Tam Điệp).

3. Về án phí: bị cáo Trần Đức T phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

101
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 25/2022/HS-ST

Số hiệu:25/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tam Điệp - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về