Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 25/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 25/2022/HS-ST NGÀY 07/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 4 năm 2022. Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 17/2022/TLST - HS ngày 09 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2022/QĐXXST - HS ngày 25 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Văn C; sinh ngày: 02/9/1952; tại Thái bình; giới tính: nam; nơi cư trú: Thôn T, xã B, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 07/10; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Phạm Văn C (đã chết) là người có thành tích trong cuộc kháng chiến lâu dài và anh dũng của dân tộc, được thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhì; con bà Phạm Thị X (đã chết); gia đình có 08 anh chị em, bị cáo là con thứ nhất; có vợ Phạm Thị B; có 05 con, lớn nhất sinh năm 1977; nhỏ nhất sinh năm 1988.

Tiền án; tiền sự: Không.

Nhân thân: Tháng 8/1971 tham gia nghĩa vụ quân sự đóng quân tại Trung đoàn 209, sư đoàn 7 miền Đông Nam Bộ, năm 1976 phục viên, là thương binh hạng 4/4, được thưởng Huy chương chiến sỹ vẻ vang, Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Bản án số 44/2016/HSST ngày 24/6/2016 của Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy xử phạt 02 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 18/12/2017; chấp hành xong án phí và sung công ngày 19/8/2016. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 29/12/2021 đến ngày 01/01/2022 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Bị cáo trích xuất có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo: Bà Trần Thị Liễu - Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Thái Bình.

Người chứng kiến:

- Ông Phạm Trung T; sinh năm 1957; cư trú tại: thôn T, xã B, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình (Vắng mặt).

- Ông Nguyễn Văn H; sinh năm 1960; Trú tại: Thôn N, xã B, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ ngày 29/12/2021, Phạm Văn c đi bộ từ nhà đến trục đường liên xã B, xã Q để tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây, C gặp và mua của một người đàn ông khoảng 40 tuổi, không biết tên, địa chỉ 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng, C cầm gói ma túy vừa mua được bỏ vào túi quần bên phải phía trước đang mặc rồi tiếp tục đi bộ về nhà. Đến 08 giờ 30 phút cùng ngày, C đang đi bộ trên đường thuộc thôn T, xã B, huyện Thái Thụy thì bị tổ công tác Công an xã B tuần tra phát hiện yêu cầu C dừng lại kiểm tra. Tại đây trước sự chứng kiến của chính quyền địa phương, ông Phạm Trung T, và ông Nguyễn Văn H, tổ công tác kiểm tra phát hiện thu giữ trong túi quần bên phải phía trước quần của C đang mặc 01 gói được gói bằng giấy màu trắng có dòng kẻ, mở ra bên trong có chất bột màu trắng dạng cục. C khai đó là ma túy loại Heroine của C vừa mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác Công an xã Thụy Bình đã tiến hành niêm phong vật chứng mẫu số ( A1 ) đồng thời đưa C và mời người chứng kiến về trụ sở Công an xã B, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và làm các thủ tục khác theo quy định của pháp luật. Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thái Thụy tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Phạm Văn C nhưng không phát hiện và thu giữ gì thêm.

Bản kết luận giám định số 480/KLGĐ-PC09 ngày 30/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Thái Bình, kết luận: “Vật chứng thu giữ của Phạm Văn C; nơi cư trú: Thôn T, xã B, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng 0,1454gam (không phẩy một nghìn bốn trăm năm mươi tu gam)”. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Phạm Văn C không có ý kiến, khiếu nại gì về kết luận của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình nêu trên.

Bản cáo trạng số: 21/CT-VKSTTTB ngày 07 tháng 3 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình và tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy thực hiện quyền công tố, giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Phạm Văn C như đã nêu trên và đề nghị Hội đồng xét xử:

* Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

* Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Phạm Văn C từ 1 năm đến 1 năm 3 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (ngày 29 tháng 12 năm 2021).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số Hêrôin thu của bị cáo Phạm Văn C có khối lượng 0,1454 gam (không phẩy một nghìn bốn trăm năm mươi bn gam); ma túy loại Heroine còn lại sau giám định là 0,1330 gam ( Không phẩy một nghìn ba trăm ba mươi gam trong phong bì niêm phong số 480/KLGĐ - PC09 ngày 30/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

* Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến và tranh luận gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thái Thụy tỉnh Thái Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ kết tội bị cáo: Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Vào khoảng Hồi 08 giờ 30 phút ngày 29/12/2021, tại trục đường thuộc thôn T, xã B, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, Phạm Văn C đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,1454 gam ma túy, loại Heroine, mục đích sử dụng cho bản thân bị tổ công tác Công an xã Thụy Bình bắt quả tang, mục đích để sử dụng cho bản thân. Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thái Thụy khám xét khẩn cấp nơi ở của Phạm Văn C nhưng không thu giữ gì liên quan đến ma túy. Lời khai của bị cáo còn được chứng minh bằng các tài liệu chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an xã B huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình lập hồi 9 giờ 00 phút ngày 29 tháng 12 năm 2021 tại trụ sở Công an xã B, huyện Thái Thụy. Biên bản niêm phong tạm giữ đồ vật tài liệu lập hồi 10 giờ 20 phút phút ngày 29 tháng 12 năm 2021; biên bản khám xét lập hồi 14 giờ ngày 29 tháng 12 năm 2021. Bản kết luận giám định số 480/KLGĐ - PC09, ngày 30/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; lời khai của người chứng kiến ông Phạm Trung T, ông Nguyễn Văn H cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự thì:

Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

[...] c) Heroin, Cocain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam; [...]”.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Phạm Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Về tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm quy định quản lý chất gây nghiện của Nhà nước. Ma túy là vật cấm lưu hành, không những làm sa sút về sức khỏe trí tuệ con người mà nó còn làm hủy hoại đạo đức nhân cách con người, phá vỡ hạnh phúc gia đình, là tác nhân lan truyền đại dịch HIV/AIDS, là nguồn gốc phát sinh các loại tội phạm khác gây ảnh hưởng đến trật tự trị an. Vì vậy phải xử phạt bị cáo một mức án nghiêm minh tương xứng với hậu quả của hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo là người có nhân thân xấu đã bị tòa án kết án tại bản án số 44/2016/HSST ngày 24/6/2016; bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy xử phạt 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình quy định tại điều 52 Bộ luật hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, bị cáo có thời gian tham gia quân đội, được thưởng Huy chương chiến sỹ vẻ vang, Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước, bản thân là thương binh 4/4 loại A là người có công với cách mạng, có bố đẻ là người có công với cách mạng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, x khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Trên cơ sở đánh giá tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì Hội đồng xét xử thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội nhưng cũng xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của Nhà nước.

[6] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cm đảm nhiệm chức vụ, cm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, nhưng do bị cáo tàng trữ ma túy nhằm mục đích sử dụng cho bản thân nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về nguồn gốc số ma túy bị cáo Phạm Văn C khai mua của người của một người nam giới khoảng 40 tuổi không biết tên, tuổi, địa chỉ ở khu vực thuộc đường liên xã B - Q, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh để xử lý.

[8] Về xử lý vật chứng: Cơ quan Công an thu giữ của bị cáo Phạm Văn C ma túy, loại Heroine có khối lượng 0,1454 gam (không phẩy một nghìn bốn trăm năm mươi bn gam); còn lại sau giám định là 0,1330 gam ( Không phẩy một nghìn ba trăm ba mươi gam) trong phong bì niêm phong số 480/KLGĐ - PC09 ngày 30/12/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình là vật Nhà nước cấm lưu hành. Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy.

[9] Về án phí: Bị cáo là người có công với Cách mạng nên miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm x, s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 47; Điều 50 Bộ luật hình sự và các điều 106,136, 331 và 333 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Phạm Văn C 01( Một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ (ngày 29 tháng 12 năm 2021).

2. Về xử lý vật chứng:

2.1. Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ của Phạm Văn C ma túy, loại Heroine có khối lượng 0,1454 gam (không phẩy một nghìn bốn trăm năm mươi bn gam); còn lại sau giám định là 0,1330 gam (Không phẩy một nghìn ba trăm ba mươi gam trong phong bì niêm phong số 480/KLGĐ - PC09 ngày 30/12/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa Công an huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình và Chi cục thi hành án dân sự huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình ngày 07 tháng 3 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình).

3. Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Phạm Văn C.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Phạm Văn C có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 07/4/2023.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

136
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 25/2022/HS-ST

Số hiệu:25/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về