Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 25/20221/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHI LỘC, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 25/20221/HS-ST NGÀY 15/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 17/2022/TLST-HS ngày 11 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2022/QĐXXST- HS ngày 15 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Đình M; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 07 tháng 5 năm 1992 tại thị xã C, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: khối 7, phường N, thị xã C, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Đình Đ, sinh năm 1963 và bà Trần Thị N, sinh năm 1970; Vợ: Chu Thị P, sinh năm 1990 và có 01 con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2013/HSST ngày 08 tháng 4 năm 2013 của Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh Nghệ An xử phạt 01 (Một) năm tù, về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Đã chấp hành xong các quyết định của bản an.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01 tháng 12 năm 2021 cho đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nghệ An. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 00 phút, ngày 01 tháng 12 năm 2021, Nguyễn Đình M bắt xe ôm đi lên khu vực bến xe khách cũ thuộc phường L, thành phố V, tỉnh Nghệ An để mua ma túy về sử dụng. Tại cổng chính bến xe, bị cáo gặp một người đàn ông không quen biết rồi hỏi mua ma túy. Người đàn ông đồng ý và nhận từ bị cáo số tiền 600.000 đồng rồi đi đâu đó khoảng 15 phút sau quay lại đưa cho bị cáo một gói màu trắng, bên trong có 02 đoạn ống hút nhựa màu tím, 01 đoạn ống hút nhựa màu trắng, bên trong 03 ống hút nhựa đều chứa chất ma túy. Sau khi mua được ma túy, bị cáo đi đến Nhà nghỉ H ở xóm 2, xã N, huyện N để sử dụng, tuy nhiên chưa kịp thuê phòng thì bị cáo bị Tổ công tác Công an phường N, thị xã C, tỉnh Nghệ An phát hiện và yêu cầu kiểm tra. Lúc này bị cáo liền thả gói ma túy từ tay trái xuống nền sân nhưng bị phát hiện, yêu cầu nhặt lên để kiểm tra. Quá trình kiểm tra, phát hiện bên trong gói nilon màu trắng mà bị cáo thả xuống nền sân có 02 đoạn ống hút nhựa màu tím, 01 đoạn ống hút nhựa màu trắng, bên trong 03 ống hút nhựa đều chứa chất tinh thể màu trắng và tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định ngày 01/12/2021 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N, tỉnh Nghệ An xác định: Số chất tinh thể màu trắng thu giữ của bị cáo sau khi loại bỏ bao bì, có khối lượng là 0,28g (Không phẩy, hai mươi tám gam) và lấy 0,19 (Không phẩy, mười chín gam) gửi đi giám định. Còn lại 0,09g (Không phẩy, không chín gam) được niêm phong theo quy định.

Tại bản kết luận giám định số 1533/KL-PC09 (Đ2-MT) ngày 06/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: “Chất tinh thể màu trắng thu giữ của bị cáo Trần Đình M gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine), có khối lượng 0,28g (Không phẩy, hai mươi tám gam) Bản cáo trạng số 21/CT-VKS-NL ngày 10 tháng 3 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh Nghệ An đã truy tố bị cáo về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên nội dung quyết định truy tố đối với bị cáo về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Trên cơ sở phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, hậu quả của vụ án, điều kiện, nguyên nhân phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình M phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 16 tháng đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo tạm giữ, tạm giam. Về hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,09g (Không phẩy, không chín gam) chất ma túy Methamphetamine còn lại thu giữ của bị cáo và 01 phong bì thư bưu điện; 03 vỏ ống nhựa cùng các vỏ bao niêm phong ban đầu.

Bị cáo đồng ý với ý kiến trình bày luận tội của đại diện Viện kiểm sát và không tranh luận đối đáp gì.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi phạm tội của mình và rất ăn năn hối cải, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nghi Lộc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Lộc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên Tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội, tội danh và khung hình phạt:

Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo khai và thừa nhận hành vi phạm tội của mình như kết luận điều tra và nội dung bản cáo trạng truy tố, ý kiến luận tội của Đại diện Viện kiểm sát, phù hợp vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp trong hồ sơ vụ án...được xem xét và thẩm tra tại phiên tòa. Do đó có đủ căn cứ kết luận: khoảng 13 giờ 45 phút, ngày 01 tháng 12 năm 2021 tại khu vực Nhà nghỉ H thuộc xóm 2, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An, bị cáo tàng trữ trái phép 0,28g (Không phẩy, hai mươi tám gam) chất ma túy ở tay trái nhằm mục đích để sử dụng thì bị Tổ công tác Công an phường N, thị xã C, tỉnh Nghệ An phát hiện, bắt quả tang. Vì vậy, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

[3]. Về tính chất, mức độ, hành vi phạm tội:

Hành vi phạm tội của bị cáo là thuộc tội phạm nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội và loại tội này đang có chiều hướng ngày càng phức tạp, gây nhức nhối cho xã hội và trở thành nỗi lo của nhiều gia đình. Hậu quả do tệ nạn ma túy gây ra rất nghiêm trọng đến các lĩnh vực Kinh tế, Văn hóa, Xã hội, An ninh-Quốc phòng, làm tổn hại sức khỏe của một bộ phận nhân dân, đồng thời là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm. Bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng do ăn chơi, đua đòi, bị cáo đã mắc vào tệ nạn xã hội nghiện chất ma túy. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng mức hình phạt phù hợp, tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để cải tạo giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[4]. Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo là người có nhân thân xấu. Năm 2013 bị Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh Nghệ An xử phạt 01 (Một) năm tù về tội: Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Sau khi chấp hành hình phạt tù trở về địa phương sinh sống bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng và rèn luyện bản mà vẫn tiếp tục phạm tội. Tuy nhiên xét thấy quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Xét thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian là điều cần thiết để bị cáo nhận thức được sự nghiêm minh của pháp luật, đồng thời có ý thức chấp hành pháp luật.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 điều 251 Bộ luật hình sự, bị cáo còn có thể bị phạt tiền. Tuy nhiên xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, là người nghiện chất ma túy nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 điều 249 Bộ luật hình sự, bị cáo còn có thể bị phạt tiền. Tuy nhiên theo xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, thu nhập thấp, hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo là người nghiện chất ma túy nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]. Về xử lý vật chứng:

Thu giữ của bị cáo 0,28g (Không phẩy, hai mươi tám gam) chất ma túy Methamphetamine. Quá trình điều tra đã lấy 0,19 gam trưng cầu giám định không hoàn lại mẫu vật. Còn lại 0,09 gam (Không phẩy, không chín gam) cùng 03 (Ba) vỏ ống nhựa và 01 bì thư bưu điện và các vỏ bao niêm phong ban đầu. Xác định đây là các vật chứng cấm tàng trữ, cấm lưu hành và các phong bì thư không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy theo quy định của pháp luật.

[7]. Các vấn đề khác:

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo, kết quả điều tra do không xác đinh được nhân thân, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ xử lý.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình M 18 (Mười tám) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ tạm giam 01/12/2021.

- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,09g (Không phẩy, không chín gam) chất ma túy Methamphetamine còn lại thu giữ của bị cáo và 01 phong bì thư bưu điện; 03 vỏ ống nhựa cùng các vỏ bao niêm phong ban đầu:

(Số vật chứng trên hiện đang được lưu giữ và bảo quản tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An theo biên bản giao nhận ngày 21 tháng 3 năm 2022).

4. Về án phí:

Căn cứ khoản 2 điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về án phí, lệ phí Toà án buộc bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm - Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 25/20221/HS-ST

Số hiệu:25/20221/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nghi Lộc - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về